[Podcast] Nhận diện hành vi gian lận báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam

21 Tháng Tám, 2024

Từ khoá: Gian lận Báo cáo tài chính, Quản trị lợi nhuận

Báo cáo tài chính (BCTC) là nguồn cung cấp thông tin cho người sử dụng để ra các quyết định kinh tế. BCTC bị gian lận tạo ra các thông tin sai lệch sẽ ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng thông tin, làm họ gánh chịu các tổn thất khi đầu tư hoặc cho vay, từ đó sẽ ảnh hưởng đến sự vận hành của thị trường chứng khoán và nền kinh tế nói chung. Vì vậy nghiên cứu về gian lận BCTC của tác giả Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (UEH) là cần thiết để nhận diện các đặc điểm của doanh nghiệp có gian lận, cách thức gian lận cũng như mục tiêu gian lận. 

Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Khi doanh nghiệp rơi vào tình trạng khó khăn, có thể không đáp ứng được kỳ vọng của người sử dụng BCTC thì lãnh đạo doanh nghiệp có khả năng gian lận BCTC để “làm đẹp” các chỉ số mà các nhà đầu tư và chủ nợ quan tâm.

Các nghiên cứu trước đây đã phát hiện các đặc điểm doanh nghiệp như tỉ số nợ trên tài sản hay tỉ số nợ trên vốn chủ sở hữu có ảnh hưởng đến hành vi gian lận BCTC. Bên cạnh đó các chỉ số về khả năng thanh toán (khả năng thanh toán hiện hành, khả năng thanh toán nhanh…), các chỉ số về khả năng sinh lời (ROE, ROA, ROS, ROI, EPS…), hay các chỉ số về hoạt động (số vòng quay hàng tồn kho, tỉ lệ tăng trưởng, dòng tiền hoạt động,…) cũng tác động đến việc thực hiện gian lận BCTC. Nhóm chỉ tiêu này chính là mục tiêu của việc thực hiện gian lận, để tăng khả năng thanh toán, khả năng sinh lời hay hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

Vì vậy, nghiên cứu các nhân tố tác động đến gian lận BCTC trong bối cảnh giải quyết trọn vẹn các khía cạnh nói trên là điều cần thiết. Hơn thế nữa, các kết quả nghiên cứu trước đây cũng không nhất quán qua các mô hình khác nhau, và chưa thể kết luận liệu sự tác động của các đặc điểm doanh nghiệp đến khả năng gian lận BCTC là phi tuyến tính hay không? Bài nghiên cứu này nhằm tìm hiểu một cách tổng hợp các khía cạnh của gian lận (đặc điểm của doanh nghiệp gian lận, phương thức gian lận, và mục tiêu gian lận), đồng thời mở rộng xem xét tác động phi tuyến tính của đặc điểm doanh nghiệp (có nợ vay cao và có vốn chủ sở hữu lớn) để giải thích sự thay đổi trong chiều hướng tác động đến khả năng gian lận BCTC.

Tác động của Báo cáo tài chính đến việc điều hành doanh nghiệp

Khi hợp đồng uỷ nhiệm không hữu hiệu, nhà quản lý sẽ tối đa hóa lợi ích của mình, để hưởng các khoản thưởng theo hợp đồng hoặc né tránh các rủi ro, thay vì tối đa hóa giá trị cho chủ sở hữu doanh nghiệp. Nhà quản lý có thể làm được điều này vì họ có nhiều thông tin hơn và có khả năng để chi phối thông qua việc điều hành doanh nghiệp. Và chính thực tế này dẫn đến rủi ro gian lận trên BCTC. 

Bên cạnh đó, do sự bất đối xứng thông tin giữa nhà quản lý và những người bên ngoài doanh nghiệp, nhà quản lý cần cung cấp các thông tin (tín hiệu) cho thị trường để các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp đánh giá và ra các quyết định đầu tư. Thông tin trên BCTC chính là những tín hiệu mà doanh nghiệp cung cấp cho các đối tượng sử dụng BCTC. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp niêm yết, các thông tin trên BCTC có tác động rõ rệt đến giá cổ phiếu. Dưới sức ép của môi trường kinh doanh, nhà quản lý dễ có khuynh hướng cung cấp “tín hiệu sai” – khi đó gian lận BCTC có thể xảy ra. Cụ thể, nhà quản lý sẽ gia tăng điều chỉnh các tỉ số mà nhà đầu tư và chủ nợ thường sử dụng để đánh giá tình hình hình tài chính và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp để đạt được các mục đích của mình, chẳng hạn như: 

  • Để tạo hình ảnh tốt đẹp với các chủ nợ, doanh nghiệp cần “làm đẹp” các chỉ số về khả năng thanh toán như chỉ số về khả năng thanh toán hiện hành, khả năng đảm bảo lãi vay, cũng như “đánh bóng” các chỉ số về khả năng sinh lời.
  • Để đáp ứng kì vọng của nhà đầu tư, doanh nghiệp sẽ “làm đẹp” các chỉ số liên quan đến khả năng sinh lời, ví dụ ROA, ROE, ROS, EPS, ROI cũng như các chỉ số về hoạt động như tỉ lệ tăng trưởng doanh thu, tỉ lệ tăng trưởng tài sản, số vòng quay hàng tồn kho, số vòng quay nợ phải thu, số vòng quay tài sản.
  • Để nhận được các khoản thưởng hay để duy trì vị trí công việc (trên hợp đồng ủy nhiệm), nhà quản lý sẽ điều chỉnh các chỉ số liên quan đến hoạt động cũng như các chỉ số về khả năng sinh lời.
  • Hành vi gian lận BCTC sẽ được thực hiện thông qua các kỹ thuật liên quan đến gian lận doanh thu, gian lận chi phí, một cách riêng lẻ hoặc kết hợp. Xu hướng gian lận sẽ tùy thuộc vào đặc điểm của doanh nghiệp, chẳng hạn nếu một doanh nghiệp có tỉ lệ nợ cao thì doanh nghiệp sẽ ưu tiên gian lận để đáp ứng các điều khoản vay; hoặc nếu một doanh nghiệp niêm yết có quy mô vốn chủ sở hữu lớn thì sẽ gian lận để đáp ứng kì vọng của chủ sở hữu, nhằm duy trì vị trí công việc trên các hợp đồng ủy nhiệm. 

Nhận diện hành vi gian lận báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết 

Kết quả nghiên cứu cho thấy hành vi gian lận BCTC của các doanh nghiệp niêm yết xuất phát và diễn biến theo các yếu tố gồm: 

*Phương thức gian lận của doanh nghiệp: là khai khống doanh thu và khai thiếu chi phí, cụ thể là giá vốn hàng bán. Như vậy cả hai cách thức đều được doanh nghiệp thực hiện để thực hiện hành vi gian lận.   

*Mục tiêu gian lận: doanh nghiệp gian lận BCTC là để đáp ứng khả năng thanh toán, đáp ứng các mục tiêu về khả năng sinh lời, cũng như đáp ứng các mục tiêu về hoạt động của doanh nghiệp. Số vòng quay tài sản có ý nghĩa thống kê, tuy nhiên trái với kì vọng, nên được xem là không có ảnh hưởng đến gian lận BCTC. 

*Về đặc điểm doanh nghiệp gian lận

Doanh nghiệp có tỉ lệ nợ cao thì ít thực hiện hành vi gian lận BCTC. Điều này trái với kỳ vọng rằng: các doanh nghiệp có áp lực nợ cao thì gia tăng gian lận để đáp ứng các điều khoản của hợp đồng vay. Nguyên nhân có thể là, các doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu, mặc dù có áp lực nợ cao, nhưng chưa gặp khó khăn về tài chính nên họ chưa/giảm thực hiện hành vi gian lận. Hơn nữa, theo lý thuyết về vốn, khi tỉ lệ nợ thấp thì doanh nghiệp chưa gặp phải các áp lực nên hành vi gian lận có thể giảm; và khi áp lực gia tăng, doanh nghiệp phải đối mặt với mất khả năng thanh toán thì doanh nghiệp có thể gia tăng thực hiện gian lận để đáp ứng các hợp đồng vay. Như vậy, có thể mối quan hệ giữa tỉ lệ nợ và gian lận BCTC không phải là tuyến tính. 

Doanh nghiệp có tỷ lệ vốn chủ sở hữu cao sẽ ít thực hiện hành vi gian lận trên BCTC. Điều này đúng với kỳ vọng, vì doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu cao thì sẽ chấp nhận tốn các chi phí giám sát để giám sát bên ủy nhiệm, và như vậy sẽ hạn chế cơ hội gian lận. Bên cạnh đó, trong bối cảnh nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn do dịch bệnh Covid 19 từ năm 2019 đến năm 2022 cũng có thể doanh nghiệp gia tăng gian lận trong các năm này, nhưng chưa đủ mạnh để tạo thành một xu thế. 

Nghiên cứu cũng cho thấy rằng, khi tỷ lệ nợ thấp thì doanh nghiệp hạn chế hoặc ít thực hiện hành vi gian lận BCTC, khi tỷ lệ nợ tăng thì doanh nghiệp gia tăng thực hiện hành vi gian lận BCTC. Bên cạnh đặc điểm tỷ lệ nợ, nghiên cứu cũng cho kết quả rằng mục đích của doanh nghiệp gia tăng gian lận để làm đẹp các chỉ số sinh lời, làm đẹp khả năng thanh toán và làm đẹp các chỉ số về hoạt động của doanh nghiệp. Số vòng quay tài sản có ý nghĩa thống kê, nhưng trái dấu với kỳ vọng.

Bên cạnh đó, khi vốn chủ sở hữu ở mức thấp doanh nghiệp ít thực hiện hành vi gian lận, khi vốn chủ sở hữu ở mức cao, áp lực từ các chủ sở hữu gia tăng, doanh nghiệp cũng gia tăng thực hiện hành vi gian lận. Với đặc điểm của doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu cao thì việc gian lận được thực hiện cũng nhằm mục đích làm đẹp các chỉ số về khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và các chỉ số hoạt động của doanh nghiệp. 

Xem toàn bộ bài nghiên cứu Nhận diện hành vi gian lận báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam tại website UEH.

Tác giả: ThS. Phạm Thị Ngọc Bích – Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

Đây là bài viết nằm trong Chuỗi bài lan tỏa nghiên cứu và kiến thức ứng dụng từ UEH với thông điệp “Research Contribution For All ( rì-sợt  can-tri-biu-sần  pho-rôl) – Nghiên Cứu Vì Cộng Đồng”, UEH trân trọng kính mời Quý độc giả cùng đón xem bản tin UEH Research Insights tiếp theo.

Tin, ảnh: Tác giả, Phòng Marketing  Truyền thông UEH

Giọng đọc: Khánh Hòa

Chu kỳ giảm giá của đồng USD?

TS. Đinh Thị Thu Hồng và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Việt Nam cần kịch bản cho thương mại tương lai

ThS. Tô Công Nguyên Bảo

26 Tháng Sáu, 2021

Hệ thống tiền tệ tiếp theo như thế nào?

TS. Lê Đạt Chí và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Chuyển đổi số trong khu vực công tại Việt Nam

Khoa Quản lý nhà nước

26 Tháng Sáu, 2021

Cần đưa giao dịch công nghệ lên sàn chứng khoán

Bộ Khoa học và Công nghệ

5 Tháng Sáu, 2021

Thiết kế đô thị: tầm nhìn vững chắc cho đô thị bền vững

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

Phục hồi du lịch và nỗ lực thoát khỏi vòng xoáy ảnh hưởng bởi Covid-19

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

2021 sẽ là năm khởi đầu của chu kỳ tăng trưởng mới

PGS.TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

5 Tháng Sáu, 2021

Quỹ vaccine sẽ khả thi khi có người dân đóng góp

Phạm Khánh Nam, Việt Dũng

5 Tháng Sáu, 2021

Kích thích kinh tế, gia tăng vận tốc dòng tiền

Quách Doanh Nghiệp

5 Tháng Sáu, 2021

Đi tìm chiến lược hậu Covid-19 cho doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam

PGS TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo, ThS Lê Văn

5 Tháng Sáu, 2021

Insurtech – Cơ hội và thách thức cho Startup Việt

Ths. Lê Thị Hồng Hoa

5 Tháng Sáu, 2021