[Podcast] Vai trò của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong việc huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực để phát triển Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (Kỳ 2)

21 Tháng Sáu, 2023

Dựa trên bối cảnh Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và tình hình phát triển kinh tế TP.HCM giai đoạn từ 2011 đến nay đã được phân tích ở kỳ 1, nhóm tác giả của Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh (UEH) đã làm rõ vai trò của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong việc huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực để phát triển Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, từ đó, đưa ra một số nguyên tắc gợi ý chính sách để thu hút nguồn lực phát triển Vùng. 

Nguồn ảnh sưu tầm

Vai trò của nguồn lực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo

Trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo (KHCN & ĐMST) luôn được coi là cơ sở quan trọng hàng đầu cho sự phát triển nhanh và bền vững. 

Sự phát triển và ứng dụng KHCN và ĐMST trong lao động sản xuất trên thực tế luôn được xem là một trong những nhân tố có đóng góp quan trọng nhất cho sự tăng trưởng của nhiều nền kinh tế, đặc biệt đối với những nước đang phát triển. Sự đổi mới mang tính thời đại của nền kinh tế hiện đại cốt lõi nằm ở việc áp dụng rộng rãi khoa học công nghệ vào sản xuất kinh tế. Đồng thời, điểm cốt yếu của tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người đều là những thay đổi về mặt công nghệ và đổi mới sáng tạo. Do đó, các quốc gia để đạt được mục tiêu phát triển cần hoàn thiện môi trường khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo, hướng đến tăng trưởng kinh tế bền vững và toàn cầu hóa. Weil (2013) chỉ ra rằng: thay đổi năng suất đóng góp bền vững cho tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Khi năng suất tăng, cùng một lượng đầu vào sản xuất sẽ cho nhiều đơn vị đầu ra hơn. Mà một trong những yếu tố chính làm tăng năng suất chính là cải tiến công nghệ và đổi mới sáng tạo. 

Với vai trò cốt lõi trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, mô hình đổi mới sáng tạo cần được thiết kế một cách có hệ thống trong phạm vi quốc gia nhằm cung cấp môi trường thân thiện cho các cá thể kinh tế tạo ra và ứng dụng công nghệ mới, cải tiến sáng tạo trong sản xuất và kinh doanh. Sener & Saridogan (2011) cho rằng, có nhiều nhân tố kích hoạt đổi mới trong công nghệ và sáng tạo ở các nền kinh tế. Đổi mới công nghệ và sáng tạo đến từ nhiều nguồn: từ các công ty, các trường đại học, những nhà nghiên cứu địa phương, các tổ chức phi chính phủ, hoặc những cá nhân đơn lẻ và nỗ lực của toàn xã hội. Ngoài ra, đặc tính không cạnh tranh khi sử dụng sẽ tạo ra thêm một nguồn nữa cho đổi mới sáng tạo, đó là chuyển giao công nghệ giữa các doanh nghiệp hoặc các quốc gia.  

Tại TP.HCM nói riêng và Việt Nam nói chung, có thể thấy KHCN chưa cho thấy vai trò dẫn dắt và là đầu tàu trong hoạt động phát triển sản xuất khi mà năng lực và trình độ công nghệ vẫn còn hạn chế, đặc biệt là càng gặp khó khăn hơn trong làn sóng của cuộc CMCN 4.0. Báo cáo của Bộ Công thương (2021) cũng đã chỉ ra một số rào cản, thách thức trong quá trình phát triển trên nền tảng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo tại Việt Nam, cụ thể:

  • Nền tảng công nghệ vẫn còn lạc hậu;
  • Năng suất lao động còn thấp và chưa hoàn toàn dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo;
  • Ngành công nghiệp cơ bản và công nghiệp hỗ trợ còn phụ thuộc quá nhiều vào bên ngoài;
  • Trong chuỗi giá trị toàn cầu, Việt Nam mới chỉ là mắc xích trung gian, là nơi gia công để xuất khẩu;
  • Các doanh nghiệp trong nước chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, kém lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;
  • Không gian các ngành công nghiệp chưa phát huy hết hiệu quả.

Để bắt kịp với xu thế của cuộc CMCN 4.0, thực hiện chuyển đổi số là tất yếu đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Thời gian qua, Chính phủ đã có nhiều định hướng, chiến lược và đã được cụ thể hóa. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi còn nhiều rào cản, thách thức cần giải quyết:

  • Hành lang pháp lý và môi trường thể chế chính sách vẫn chưa chặt chẽ, đồng bộ và chưa theo kịp sự phát triển của các mô hình kinh doanh trong nền kinh tế số hiện nay;
  • Năng lực nội tại của nền kinh tế Việt Nam vẫn còn khoảng cách lớn so với khu vực về đổi mới, sáng tạo;
  • Mức độ sẵn sàng cho số hóa của Việt Nam còn thấp;
  • Thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao;
  • Hạ tầng viễn thông vẫn còn hạn chế;
  • Thiếu tầm nhìn về chuyển đổi số;
  • Tư duy ngại thay đổi;
  • Hạn chế về năng lực đội ngũ;
  • Hạn chế về ngân sách và thời gian.

Một số nguyên tắc gợi ý chính sách để thu hút nguồn lực phát triển

Dựa trên những phân tích này, nhóm tác giả đã đề xuất một số nguyên tắc gợi ý chính sách để thu hút nguồn lực cho TP.HCM, tập trung vào tài lực, nhân lực, và các cơ chế chính sách liên quan đến đất đai, tỷ lệ điều tiết ngân sách, bồi dưỡng nguồn thu, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo như sau: 

  • Với nguồn lực cho các dự án đầu tư công, cần tạo sự lan tỏa mạnh mẽ nhằm kích thích tổng cầu. Trong đó, cơ quan đại diện vốn nhà nước tham gia thực hiện các dự án đầu tư công với nguồn “vốn đệm” từ ngân sách nhà nước, đồng thời kết hợp và chủ động tìm kiếm và đề xuất nhà đầu tư từ khu vực tư nhân. Tránh tình trạng trông chờ vào nguồn vốn ngân sách nhưng phải linh hoạt, đa dạng, tháo gỡ những khó khăn đối với các hình thức chi trả cho nhà đầu tư theo mô hình đối tác công tư.
  • Vai trò thu hút vốn đòi hỏi tính hiệu quả của các công ty đầu tư tài chính nhà nước để thực hiện xây dựng các công trình, dự án phát triển kinh tế xã hội theo danh mục các lĩnh vực đầu tư kết cấu hạ tầng phát triển kinh tế – xã hội ưu tiên phát triển của TP.HCM giai đoạn 2021-2025 đã được ban hành. 
  • Để thu hút nguồn lực về vốn, cần phải chủ động tiến hành rà soát, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất, cơ sở quy hoạch hạ tầng cho dịch vụ, công nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao, hệ thống cảng, logistics… Hoàn thiện và đổi mới cơ chế chuẩn bị đất cho nhà đầu tư, thí điểm đối với dự án cải tạo và phát triển đô thị theo định hướng tích hợp từ nguồn lực trong nước lẫn nước ngoài, từ nguồn lực của nhà nước lẫn tư nhân.
  • Rà soát các dự án tồn đọng và các dự án tiềm năng để tiến hành tổ chức các buổi xúc tiến, lấy ý kiến đầu tư, kêu gọi các nhà đầu tư nghiên cứu, đầu tư các dự án trong danh mục của TP.HCM; xúc tiến đầu tư vào các lĩnh vực như kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn,… Cần chủ động trong việc tiếp cận, tìm hiểu và hỗ trợ các đối tác, tập đoàn lớn, công nghệ cao, chủ động phương án về quỹ đất, mặt bằng, hạ tầng kết nối, nhân lực,… Chú trọng công tác đối thoại chính sách, xúc tiến đầu tư tại chỗ, nắm bắt tình hình, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp FDI đã và đang có nhu cầu đầu tư.
  • Để bổ sung nguồn thu cho ngân sách TP.HCM, cần thực hiện rà soát quỹ đất công do các cơ quan, đơn vị thuộc thành phố quản lý. Nếu không có nhu cầu tiếp tục sử dụng, thì thực hiện phương án bán đấu giá. Đồng thời, cần tăng cường quản lý đất đai, đảm bảo việc sử dụng đất đúng mục đích, phù hợp với quy hoạch. Trong trường hợp đất thuê nhà nước vi phạm, cần xem xét thu hồi theo quy định và tổ chức đấu giá để tránh lãng phí. 
  • Để đảm bảo nguồn thu đúng, đủ, và kịp thời, cần tăng cường các biện pháp quản lý và bồi dưỡng nguồn thu, giải quyết các vướng mắc trong lĩnh vực thuế và tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất kinh doanh phát triển. Ngoài ra, phải phát huy hiệu quả nguồn kiều hối tham gia vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, đồng thời phát triển hệ thống chỉ trả và đa dạng hóa các hình thức trên nền tảng công nghệ. Kiến tạo chính sách để khuyến khích chuyển tiền về nước nhưng phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người Việt Nam ở nước ngoài và người thụ hưởng. Ngoài ra, rà soát và đánh giá tình hình thu chi ngân sách, từ đó đưa ra các biện pháp phát hành trái phiếu chính quyền địa phương tạo thêm nguồn vốn cho đầu tư.
  • Kiến nghị tăng tỷ lệ điều tiết ngân sách để lại cho TP.HCM từ năm 2023 trở đi nhằm cung cấp nguồn lực cho TP.HCM đầu tư vào các hạ tầng kinh tế kỹ thuật, giao thông, số hóa,… Điều này sẽ giúp thành phố phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại, đồng bộ, thu hút các nhà đầu tư ngoài nhà nước, mở rộng các khu công nghệ cao và tạo ra các khu công nghiệp mới với chiến lược thu hút nhà đầu tư công nghiệp hiện đại. Cần tiếp tục khai thác cơ chế đặc thù từ Nghị Quyết số NQ 54/QH của Quốc hội liên quan đến đất đai, cổ phần hóa, phí lệ phí,…
  • Đổi mới chính sách đầu tư nhằm thu hút nguồn vốn từ khu vực tư nhân cho quá trình phát triển của ngành, đón đầu các xu hướng đầu tư, dịch chuyển đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt là các chuỗi cung ứng hàng công nghiệp trên thế giới và ở khu vực. Hướng đến các dự án FDI có nền tảng KHCN và ĐMST. Thiết lập các chính sách ưu đãi tín dụng, thuế, sử dụng đất đai, kết cấu hạ tầng kỹ thuật, sử dụng dịch vụ công, tạo thuận lợi về thị trường, về quan hệ quốc tế, về đăng ký bản quyền và bảo vệ sở hữu trí tuệ, cải cách thủ tục hành chính,…
  • Với mục tiêu trở thành trung tâm tài chính, quan trọng nhất chính là kiến tạo chính sách và nới lỏng sự kìm hãm trong xu hướng phát triển kinh tế số gắn liền với tài chính toàn diện. Khi đó, cơ chế thí điểm như hình thức “sandbox” đối với các công ty công nghệ sẽ giúp cơ quan quản lý hiểu và nắm rõ cách thức vận hành và rủi ro có thể có đối với những sản phẩm, mô hình từ FinTech nói riêng và chiến lược toàn diện tài chính nói chung. Trong đó có thể hướng đến thí điểm hai nhóm dịch vụ tài chính kỹ thuật số chính, bao gồm: (1) Thanh toán kỹ thuật số, thanh toán bù trừ; (2) Tiền gửi, cho vay, và huy động vốn (bao gồm cả chuyển đổi số của tổ chức tài chính truyền thống và mô hình mới từ tổ chức tài chính thay thế)
  • Các nguồn lực phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ cao, công nghệ mới phải được ưu tiên nhằm thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành công nghiệp dịch vụ có hàm lượng tri thức, giá trị gia tăng cao. Đối với các khu công nghệ cao, phải thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu triển khai, đào tạo, ươm tạo, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và xây dựng năng lực nội sinh công nghệ cao, phát triển sản phẩm chủ lực theo định hướng chuyển từ gia công lắp ráp sáng chế tạo, nâng cao giá trị gia tăng, sản xuất.
  • Chính phủ cần sớm triển khai các đề án, chính sách để hỗ trợ các doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi số, ứng dụng KHCN, tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs), đồng thời ưu tiên thí điểm tại các tập đoàn, doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp công nghệ thông tin, các doanh nghiệp nghiên cứu đổi mới sáng tạo. 
  • Để đảm bảo an ninh kinh tế trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, cần phải khắc phục tình trạng sử dụng các quỹ đầu tư, công ty sân sau của nước ngoài có nguồn gốc từ các thiên đường thuế và các nhóm lợi ích trong nước để đầu tư vào các công ty bất động sản, dự án của Việt Nam nhằm chiếm lĩnh, thâu tóm các dự án bất động sản. Điều này có thể dẫn đến sự thao túng thị trường và che giấu nguồn tiền bất hợp pháp, đánh lạc hướng dư luận trong việc đầu tư dự án. Phải kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo an toàn và sự minh bạch trong hoạt động đầu tư.
  • Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Tập trung nâng cao nguồn nhân lực trong lĩnh vực công nghệ thông tin, đặc biệt là liên quan đến an ninh mạng, trí tuệ nhân tạo (AI), máy học (machine learning), Internet vạn vật (IoT), chuỗi khối (blockchain), và thực tế ảo/thực tế tăng cường (VR/AR). Việc bổ sung kịp thời đội ngũ nhân lực này là nhân tố quyết định để bắt kịp sự phát triển của nền kinh tế dựa trên KHCN và ĐMST. 

Xem toàn bộ bài nghiên cứu Vai Trò Của Khoa Học Công Nghệ Và Đổi Mới Sáng Tạo Trong Việc Huy Động Và Sử Dụng Hiệu Quả Các Nguồn Lực Để Phát Triển Vùng Kinh Tế Trọng Điểm Phía Nam TẠI ĐÂY

Nhóm tác giả: PGS.TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo; ThS. Tô Công Nguyên Bảo,  Đại học Kinh Tế TP.HCM. 

Đây là bài viết nằm trong Chuỗi bài lan tỏa nghiên cứu và kiến thức ứng dụng từ UEH với thông điệp “Research Contribution For All – Nghiên Cứu Vì Cộng Đồng”, UEH trân trọng kính mời Quý độc giả cùng đón xem Bản tin kiến thức KINH TẾ SỐ #76 tiếp theo.

Tin, ảnh: Tác giả, Phòng Marketing – Truyền thông UEH

Giọng đọc: Ngọc Quí

Chu kỳ giảm giá của đồng USD?

TS. Đinh Thị Thu Hồng và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Việt Nam cần kịch bản cho thương mại tương lai

ThS. Tô Công Nguyên Bảo

26 Tháng Sáu, 2021

Hệ thống tiền tệ tiếp theo như thế nào?

TS. Lê Đạt Chí và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Chuyển đổi số trong khu vực công tại Việt Nam

Khoa Quản lý nhà nước

26 Tháng Sáu, 2021

Cần đưa giao dịch công nghệ lên sàn chứng khoán

Bộ Khoa học và Công nghệ

5 Tháng Sáu, 2021

Thiết kế đô thị: tầm nhìn vững chắc cho đô thị bền vững

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

Phục hồi du lịch và nỗ lực thoát khỏi vòng xoáy ảnh hưởng bởi Covid-19

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

2021 sẽ là năm khởi đầu của chu kỳ tăng trưởng mới

PGS.TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

5 Tháng Sáu, 2021

Quỹ vaccine sẽ khả thi khi có người dân đóng góp

Phạm Khánh Nam, Việt Dũng

5 Tháng Sáu, 2021

Kích thích kinh tế, gia tăng vận tốc dòng tiền

Quách Doanh Nghiệp

5 Tháng Sáu, 2021

Đi tìm chiến lược hậu Covid-19 cho doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam

PGS TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo, ThS Lê Văn

5 Tháng Sáu, 2021

Insurtech – Cơ hội và thách thức cho Startup Việt

Ths. Lê Thị Hồng Hoa

5 Tháng Sáu, 2021