[Podcast] Tái Cấu Trúc Bền Vững Vùng Kinh Tế Đông Nam Bộ (Kỳ 2): Hạn Chế Nội Vùng
21 Tháng Tư, 2023
Vùng Đông Nam Bộ đang có những đóng góp quan trọng chung vào tăng trưởng và phát triển của cả nước, nhưng đang đứng trước thách thức phục hồi kinh tế và tiến tới phát triển bền vững trong dài hạn. Trước vấn đề này, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh (UEH) đã và đang nỗ lực đóng góp cho sự phát triển của Vùng thông qua hoạt động nghiên cứu và tư vấn. Tại bài viết này, tác giả đã phân tích những điểm nghẽn trong quá trình phát triển Vùng, từ đó, đề xuất các chính sách cơ cấu hay thực hiện tái cấu trúc trung và dài hạn nhằm đảm bảo phát triển bền vững Vùng.
Ở kỳ 1 của bài viết, tác giả đã phân tích những điểm nghẽn quan trọng đối với phát triển kinh tế mà Vùng Đông Nam Bộ (ĐNB) đang đối diện. Vậy những điểm nghẽn này dẫn đến một hệ quả như thế nào? Cùng tìm hiểu kỳ 2 của bài viết sau đây!
Hạn chế kinh tế Vùng Đông Nam Bộ
Tăng trưởng GRDP Vùng ĐNB chậm dần và có xu hướng giảm. Tốc độ tăng trưởng Vùng có xu hướng giảm và chững lại, trong thập niên đầu tiên tốc độ tăng trưởng trung bình Vùng trên 10% và trong thập niên kế tiếp có xu hướng giảm rõ duy trì trung bình 7-8%/năm và đặc biệt giảm sâu trong năm 2020-2021 do ảnh hưởng dại dịch Covid-19.
Một điều đặc biệt đáng quan tâm đối với TP..HCM đóng vai trò dẫn dắt Vùng với các điểm sáng như tỉ trọng thu ngân sách cao nhất trong Vùng, tỉ lệ huy động vốn tín dụng tư nhân cao nhất trong Vùng (chiếm tỉ trọng 80% Vùng), có xu thế đổi mới công nghệ nhất trong Vùng (qua chỉ tiêu GRDP tạo ra trên một đơn vị điện năng là 20 cao gấp đôi mức trung bình Vùng, tỉ lệ lao động đào tạo cao nhất trong Vùng (xấp xỉ 40%), chi tiêu ngân sách cho giáo dục cao nhất trong Vùng) nhưng hiện đang đối diện với vấn đề cơ sở hạ tầng giao thông khi được xếp hạng PCI về cơ sở hạ tầng tổng quát lại đi sau hai địa phương Bình Dương và Đồng Nai.
Nghiêng về bằng chứng quá tải cơ sở hạ tầng đối với một siêu đô thị, có thể nhận thấy sự không đồng bộ về cơ sở hạ tầng cứng đã hạn chế những thế mạnh tiềm năng vốn có của TP.HCM nói riêng và Vùng ĐNB nói chung trong việc phát huy thế mạnh nội vùng và các vùng kinh tế khác, nên dẫn đến không chỉ tốc độ tăng trưởng riêng của TP.HCM nói riêng mà tốc độ tăng trưởng của Vùng cũng đang có chiều hướng chựng lại và đi xuống trong những năm gần đây.
Tốc độ tăng trưởng GRDP hàng năm. Nguồn: Tính toán từ dữ liệu GSO
Tỷ trọng huy động tín dụng tư nhân trong tổng tín dụng vùng. Nguồn: Tính toán từ dữ liệu GSO
Tỷ lệ chi tiêu NSNN cho giáo dục (%). Nguồn: Tính toán từ dữ liệu GSO
Chi phí logistics cao do cơ sở hạ tầng cứng về giao thông và logistics chưa kết nối hoàn chỉnh nội vùng và các vùng kinh tế phía Tây. Nền kinh tế Vùng có độ mở cao nhưng cơ sở hạ tầng giao thông liên kết Vùng chưa kết nối đồng bộ, đặc biệt TP.HCM là nơi có đóng góp thu ngân sách cao nhưng các hệ thống giao thông vành đai kết nối Vùng chưa hoàn chỉnh và chậm tiến độ.
Vùng có mức độ lưu chuyển hàng hóa qua các cảng hàng không và các cảng biển với tần suất cao, có độ mở thương mại đang tăng hơn gấp đôi trong hai thập niên qua và hiện nay độ mở thương mại Vùng khoảng 250% so với GRDP (trung bình Việt Nam khoảng 200% so với GDP), và tập trung nhiều vào các tỉnh thành có lưu lượng hàng hóa từ dịch vụ và công nghiệp như TP.HCM, Bình Dương, và Đồng Nai. Đặc biệt TP.HCM là một siêu đô thị hơn 10 triệu dân, mặc dù có nhiều nỗ lực đóng góp về ngân sách nhưng cơ sở hạ tầng giao thông được xếp hạng sau Bình Dương và Đồng Nai hiện đang đối diện với các tắc nghẽn và chi phí logistics cao, cạnh tranh dịch vụ và công nghiệp có chiều hướng đi xuống khi mà hệ thống vành đai 1 còn 10% phải hoàn thiện và quá tải, hệ thống vành đai 2 chưa khép kín do còn 6 km chưa triển khai, hệ thống vành đai 3 dài 90 km chưa triển khai, và hệ thống vành đai 4 dài 196 km đã được phê duyệt nhưng chưa triển khai hoàn toàn.
Như vậy với tốc độ lưu chuyển hàng hóa dịch vụ phục vụ cho nội vùng và xuất nhập khẩu trong bối cảnh Vùng còn yếu kết nối giao thông Vùng, kết nối hệ thống logistics Vùng cũng là một nguyên nhân tạo ra chi phí logistics của Việt Nam nói chung và Vùng ĐNB nói riêng kém cạnh tranh hơn so với các quốc gia khác trong khu vực (chi phí logistics Việt Nam chiếm 16,8% tổng giá trị hàng hóa còn mức trung bình thế giới là 10% trong năm 2021).
Tỷ lệ xuất nhập khẩu trên GRDP. Nguồn: Tính toán từ dữ liệu GSO
Thứ hạng chỉ số cơ sở hạ tầng Nguồn: PCI
Hạn chế liên kết Vùng Đông Nam Bộ về chuỗi cung ứng
Tỷ lệ quy mô nông sản được sản xuất bảo đảm các quy chuẩn sản xuất an toàn sinh học và VietGAP vẫn còn ít so với tổng quy mô chung của Vùng. Các quy chuẩn và quy định an toàn chưa được xác định một cách chính xác, do vậy, tính bền vững trong chuỗi cung ứng Vùng theo tiếp cận ATTP còn yếu. Hiện nay, TP.HCM đang thực hiện thí điểm mô hình quản lý ATTP hợp nhất với đầu mối là Ban Quản lý ATTP Thành phố. Trong khi đó, các tỉnh khác trong Vùng vẫn tổ chức quản lý ATTP theo mô hình phân tán giữa các cơ quan quản lý cấp tỉnh thuộc ba ngành nông nghiệp, y tế và công thương, trong đó ngành y tế là đầu mối.
Việc sản xuất và chế biến cũng như tiêu dùng trực tiếp nông sản thực phẩm theo hướng ATTP trong Vùng và phục vụ xuất khẩu còn hạn chế do tỷ trọng quy mô nông sản sản xuất theo các quy chuẩn an toàn sinh học và VietGAP thấp. Vì tính chất bắt buộc về pháp lý, các địa phương chủ yếu áp dụng quy chuẩn sản xuất an toàn sinh học trong nông nghiệp và có những hỗ trợ tài chính theo dự án, nhất là hỗ trợ cho Hợp tác xã (HTX) tùy theo vào nguồn lực địa phương. Trong khi đó, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP không có tính chất bắt buộc và chỉ tùy thuộc vào yêu cầu của kênh thị trường tiêu thụ. Mặc dù hầu hết các tỉnh khuyến khích nông dân tham gia HTX để quản lý việc sản xuất thực phẩm an toàn và hỗ trợ áp dụng VietGAP, nhưng trên thực tế phần lớn người sản xuất chưa quan tâm hoặc kém năng lực thực hiện sản xuất theo quy chuẩn an toàn sinh học hoặc tiêu chuẩn VietGAP.
Việc chứng nhận nguồn gốc xuất xứ, thương hiệu, nhãn hiệu tập thể và cá nhân, cung cấp các giải pháp ứng dụng cho truy xuất nguồn gốc sản phẩm, cấp mã vạch, mã QR cho sản phẩm đạt chuẩn theo yêu cầu của nhà sản xuất đang được các tỉnh thuộc Vùng thực hiện nhưng chưa rộng khắp, do vậy chuỗi cung ứng Vùng về LTTP vẫn chưa thực sự bền vững theo tiếp cận ATTP. Do đó, việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm thịt vẫn còn chưa thể thực hiện được ở kênh phân phối truyền thống vì thực chất chỉ truy xuất từ thương lái thu gom cho đến giết mổ và phân phối về các chợ đầu mối. Đặc biệt, truy xuất nguồn gốc sản phẩm càng khó khăn hơn khi sản phẩm chăn nuôi trước giết mổ đến từ rất nhiều tỉnh, thành khác nhau. Tình hình truy xuất nguồn gốc cũng tương tự như vậy đối với sản phẩm thịt gia súc gia cầm khác và rau quả do hộ nông dân sản xuất.
Hạn chế quản trị tài nguyên Vùng Đông Nam Bộ
Vùng và đặc biệt các tỉnh/Thành hạ nguồn lưu vực sông sẽ phải đối mặt với vấn đề thiếu nước cho sản xuất và sinh hoạt. Nhu cầu sử dụng nước của TP. Hồ Chí Minh trong nhiều lĩnh vực là lớn nhất trong Vùng do dân số của siêu đô thị này gấp 5 lần so với các tỉnh còn lại trong Vùng, trong khi đó chất lượng nguồn nước mặt, nước ngầm ở lưu vực sông Sài Gòn – Đồng Nai đang suy giảm. Ở hạ lưu hệ thống sông Đồng Nai, xâm nhập mặn là vấn đề đáng quan tâm. Số liệu quan trắc giai đoạn 2007 – 2014 cho thấy tình hình xâm nhập mặn ở tỉnh Đồng Nai đang có biểu hiện tiêu cực. Độ mặn ở sông Đồng Nai tăng lên rõ rệt, đặc biệt từ tháng 3 đến tháng 5 hàng năm. Hiện tượng xâm mặn ngày càng sâu cho thấy khả năng TP.HCM sẽ phải đối mặt với vấn đề nguồn cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt trong tương lai gần.
Vùng, đặc biệt là TP.HCM sẽ phải đối mặt với ô nhiễm do nước thải sinh hoạt ngày càng trầm trọng. Lưu vực hệ thống sông Đồng Nai hiện có 4 thành phố, 19 quận thuộc TP.HCM, 8 thị xã và 85 thị trấn. Phân bố các khu đô thị không đồng đều trên toàn bộ lưu vực, tập trung nhiều nhất trên lưu vực sông Sài Gòn với 27 khu đô thị và 5,75 triệu dân đô thị. Cùng với mức độ đô thị hóa và gia tăng dân số của riêng TP.HCM và toàn vùng, lượng chất thải rắn cần xử lý và nước thải sinh hoạt sẽ tiếp tục gia tăng ở tốc độ cao trong thời gian tới. Nước thải sinh hoạt chứa nhiều chất gây ô nhiễm đối với nước sông Sài Gòn. Đến năm 2020, lưu lượng và tải lượng ô nhiễm đổ vào sông Sài Gòn từ khu vực TP.HCM và tỉnh Bình Dương ước tính tăng lên khoảng 2 lần. Đây là một trong những nguồn thải cơ bản nhất gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường nước ở lưu vực, đặc biệt là ô nhiễm hữu cơ, ô nhiễm do các chất dinh dưỡng, do dầu mỡ, ô nhiễm chất hoạt động bề mặt và vi trùng gây bệnh.
Ô nhiễm do nước thải công nghiệp và nông nghiệp độc hại khó xử lý gây hại đến khả năng hồi phục tự nhiên về lâu dài. Rất nhiều nhóm ngành sản xuất công nghiệp có mức độ ô nhiễm cao như điện tử, cao su, nhựa, cơ khí, hóa chất, sản xuất thuốc trừ sâu, giấy và bột giấy, dệt nhuộm, giày da, luyện kim, xi mạ, sơn, chế biến nông – lâm sản, hoặc thực phẩm tập trung ở vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam. Nước thải công nghiệp của các ngành này chứa nhiều chất ô nhiễm, độc hại và là nguồn thải có thể gây ô nhiễm nghiêm trọng đối với nước sông Sài Gòn. Mức độ ô nhiễm gây ra do nước thải công nghiệp rất lớn bởi nước thải công nghiệp chứa nhiều chất độc hại và khó phân huỷ, có những chất có thể tiêu diệt vi sinh vật và sinh vật có lợi trong nước, gây ô nhiễm và suy thoái nhanh nguồn nước.
Tác động chính của hoạt động nông nghiệp đối với chất lượng nước sông là khi nước chảy tràn đồng ruộng cuốn theo dư lượng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật rồi xâm nhập vào nước sông. Thuốc bảo vệ thực vật có độc tố cao, có khả năng tồn lưu lâu dài trong nước và đất, ảnh hưởng xấu đến thủy sinh, sức khoẻ con người và vệ sinh thực phẩm.
Các hệ quả này đã được Bộ tài nguyên và Môi trường khẳng định Vùng Đông Nam Bộ là (Tài liệu hội nghị đầu tư Đông Nam Bộ, 2022): tổng lượng phát thải ra môi trường đất nước, không khí đã dần chạm ngưỡng an toàn của hệ thống môi trường tác động đến môi trường sống, sức khỏe của người dân. Lượng chất thải rắn, phát thải CO2, nước thải tiếp tục gia tăng nếu tiếp tục phát triển theo mô hình sản xuất – tiêu dùng – thải bỏ; hệ thống hạ tầng môi trường chậm được đầu tư. Kết quả điều tra và tính toán cân bằng nước dự báo đến năm 2030 Đông Nam Bộ thiếu hơn 2,5 tỷ m3, đến năm 2050 nhu cầu về nước của Vùng cho sinh hoạt, đô thị, công nghiệp, du lịch có xu hướng tăng nhanh nhất trên cả nước (khoảng 112%). Các tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng làm gia tăng xâm nhập mặn, các hình thái thời tiết cực đoan, bất định và trái quy luật thông thường, lượng mưa mùa khô giảm, cùng với suy giảm thảm phủ rừng, nguồn sinh thủy, ô nhiễm càng làm gia tăng các nguy cơ về an ninh nguồn nước.
Tác giả: GS.TS. Nguyễn Trọng Hoài – Tổng biên tập tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh Doanh Châu Á (Journal of Asian Business and Economic Studies – JABES), Đại học Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh.
Đây là bài viết nằm trong Chuỗi bài lan tỏa nghiên cứu và kiến thức ứng dụng từ UEH với thông điệp “Research Contribution For All – Nghiên Cứu Vì Cộng Đồng”, UEH trân trọng kính mời Quý độc giả cùng đón xem Bản tin kiến thức KINH TẾ SỐ #71 [Podcast] Tái Cấu Trúc Bền Vững Vùng Kinh Tế Đông Nam Bộ (Kỳ 3): Quan Điểm Tái Cấu Trúc Vùng tiếp theo.
Tin, ảnh: Tác giả, Phòng Marketing – Truyền thông UEH
Giọng đọc: Ngọc Quí
[Podcast] UEH hướng đến trung hòa carbon: Bước đi đầu tiên
22 Tháng Tám, 2024
[Podcast] Kinh tế tuần hoàn – Chìa khóa đạt được phát triển bền vững
16 Tháng Tám, 2024
[Podcast] Giải pháp nâng cao hoạt động vận động cho sinh viên
9 Tháng Tám, 2024
[Podcast] Phong Cách Lãnh Đạo Đạo Đức Và Hành Vi Ngoài Vai Trò Của Công Chức
29 Tháng Bảy, 2024
[Podcast] Định Hình Chiến Lược Phát Triển Toàn Diện, Bền Vững Cho Đất Nước
25 Tháng Bảy, 2024
[Podcast] Mô Hình Đại Học Bền Vững Dành Cho Các Thị Trường Mới Nổi
19 Tháng Bảy, 2024
[Podcast] Những Tiếp Cận Mới Nhất Dành Cho Các Đại Học Bền Vững
11 Tháng Bảy, 2024
[Podcast] Tác Động Của Nguồn Nhân Lực Xanh Đến Các Mục Tiêu Về Môi Trường
24 Tháng Năm, 2024
Kinh Tế Xã Hội Và Sự Phát Thải CO2 Ở Việt Nam Giai Đoạn 1990 – 2018
23 Tháng Năm, 2024
Pháp Luật Dữ Liệu – Kỳ 1: Cần Một Cách Tiếp Cận Mới
15 Tháng Năm, 2024
[Podcast] Pháp Luật Dữ Liệu – Kỳ 1: Cần Một Cách Tiếp Cận Mới
14 Tháng Năm, 2024
Đánh Giá Quảng Cáo Trên Nền Tảng Tiktok
8 Tháng Năm, 2024
[Podcast] Đánh Giá Quảng Cáo Trên Nền Tảng Tiktok
7 Tháng Năm, 2024
[podcast] Phản Ứng Của Chính Sách Xã Hội Đối Với Đại Dịch Covid-19 Ở Một Số Quốc Gia (Kỳ 1)
8 Tháng Mười Hai, 2023
Promoting Learner Autonomy in English Language Learning (Part 2)
28 Tháng Mười Một, 2023
[Podcast] Ngoại giao kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế
10 Tháng Mười Một, 2023
ArtTech and sustainable development
27 Tháng Mười, 2023
Cộng đồng ArtTech đầu tiên tại Việt Nam – Một năm nhìn lại
9 Tháng Mười, 2023
ArtTech – Một xu hướng tương lai
5 Tháng Mười, 2023
ArtTech và phát triển bền vững
3 Tháng Mười, 2023
[Podcast] Máy Tính Và Công Nghệ “Không Đi Một Mình” – Phần 4
24 Tháng Bảy, 2023
[Podcast] Tác Động Của Đồng Tiền Kỹ Thuật Số Đến Tỷ Giá Hối Đoái
14 Tháng Mười Một, 2022
[Podcast] Chuyển Đổi Số Trong Ngành Du Lịch Việt Nam
5 Tháng Năm, 2022
[Podcast] Chuyển Đổi Số Trong Lĩnh Vực Y Tế Ở Việt Nam
25 Tháng Ba, 2022
[Podcast] Phân Tích Dữ Liệu Con Người Tại Việt Nam
18 Tháng Ba, 2022
[Podcast] Chuyển Đổi Số Trong Nông Nghiệp Ở Việt Nam
11 Tháng Ba, 2022
[Podcast] Mô Hình Kinh Tế Chia sẻ: Các Vấn Đề Quản Lý Ở Việt Nam
21 Tháng Một, 2022
[Podcast] Nâng Cao Trải Nghiệm Khách Hàng Trực Tuyến Trong Ngành Du Lịch
15 Tháng Một, 2022
[Podcast] Chính Sách Lao Động Việc Làm Cho TP. HCM Trong Giai Đoạn Sau Giãn Cách
28 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Xây Dựng Thị Trường Chứng Khoán Phi Tập Trung Dựa Trên Công Nghệ Blockchain
24 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Học Tập Suốt Đời Trong Thế Giới Số: Góc Nhìn Từ Nghề Nghiệp Kế Toán, Kiểm toán
21 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Học Tập Suốt Đời Tại UEH: Hướng Đến Đại Học Bền Vững
14 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Xu Hướng Kinh Doanh Bán Lẻ Trực Tuyến Thời Kỳ Covid
10 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Big Data Cho Mục Tiêu Phát Triển Bền Vững: Kinh Nghiệm Quốc Tế
7 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Cải Cách Luật Đất Đai Để Thúc Đẩy Phát Triển Kinh Tế
2 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Cuộc Cách Mạng Trong Kinh Tế Học Thực Nghiệm
30 Tháng Mười Một, 2021
[Podcast] Chỉ Số Giá Tiêu Dùng Từ Góc Nhìn Khai Thác Dữ Liệu Lớn (Big Data)
17 Tháng Mười Một, 2021
[Podcast] Toàn Cảnh Tiền Tệ Kỹ Thuật Số – Phần 5 : Tiền Ổn Định Tư Nhân Diem
5 Tháng Mười Một, 2021
Đứt gãy chuỗi cung ứng vùng trọng điểm phía Nam: 8 giải pháp
20 Tháng Mười, 2021
[Podcast]Toàn Cảnh Tiền Tệ Kỹ Thuật Số – Phần 2: Những Cột Mốc Phát Triển
19 Tháng Mười, 2021
[Podcast] Toàn cảnh tiền tệ kỹ thuật số – Phần 1: Xu thế của thời đại
15 Tháng Mười, 2021
NGÂN HÀNG BẮT TAY FINTECH (Phần 3): Các Giải Pháp Hỗ Trợ
8 Tháng Mười, 2021
UEH chủ trì thành công Hội thảo ICBF 2021
7 Tháng Mười, 2021
GRSD 2021- Hội thảo khoa học “Tăng trưởng xanh và phát triển bền vững”
6 Tháng Mười, 2021
NGÂN HÀNG BẮT TAY FINTECH (phần 2): Chọn đối tác theo tiêu chí nào?
4 Tháng Mười, 2021
‘Đổi mới giáo dục nghề nghiệp là động cơ tăng trưởng kinh tế’
30 Tháng Chín, 2021
Giải pháp “mở cửa” an toàn với các khu công nghiệp tại TP Hồ Chí Minh
27 Tháng Chín, 2021
Khi cuộc sống “bình thường mới”, nơi ở cho người lao động cần được quan tâm
9 Tháng Chín, 2021
Hướng phát triển mô hình đào tạo luân phiên (Dual Education) tại Việt Nam
6 Tháng Chín, 2021
Webinar: Tương lai ngành Thẩm định giá trong thập niên mới
17 Tháng Tám, 2021
Hãy là người dùng thông minh khi đón nhận và chia sẻ thông tin
9 Tháng Tám, 2021
Webinar: An toàn thông tin kế toán trong kỷ nguyên số
3 Tháng Tám, 2021
Có nên đưa lãi suất tiền gửi VND về 0 phần trăm?
20 Tháng Bảy, 2021
Chu kỳ giảm giá của đồng USD?
TS. Đinh Thị Thu Hồng và nhóm nghiên cứu
26 Tháng Sáu, 2021
Việt Nam cần kịch bản cho thương mại tương lai
ThS. Tô Công Nguyên Bảo
26 Tháng Sáu, 2021
Hệ thống tiền tệ tiếp theo như thế nào?
TS. Lê Đạt Chí và nhóm nghiên cứu
26 Tháng Sáu, 2021
Chuyển đổi số trong trường đại học: Dạy học trực tuyến sẽ trở thành xu hướng tất yếu
GS.TS. Nguyễn Trọng Hoài
26 Tháng Sáu, 2021
Tiền số ngân hàng Trung ương – Vận hành và thử nghiệm
Châu Văn Thành
26 Tháng Sáu, 2021
Chuyển đổi số trong khu vực công tại Việt Nam
Khoa Quản lý nhà nước
26 Tháng Sáu, 2021
“Cấp cứu” doanh nghiệp trước làn sóng COVID-19 thứ 4
23 Tháng Sáu, 2021
Chuyên gia UEH: Việt Nam nên kết hợp tiêm vaccine miễn phí và dịch vụ
23 Tháng Sáu, 2021
Hội thảo khoa học về Thị trường bảo hiểm Việt Nam (Conference on Vietnam’s Insurance Industry – CVII)
Khoa Toán – Thống Kê
7 Tháng Sáu, 2021
Muốn có trung tâm tài chính phải có chiến lược thích ứng
Khoa Tài chính
5 Tháng Sáu, 2021
Bảo vệ thông tin cá nhân trong thời kỳ chuyển đổi số dưới góc nhìn pháp luật
Khoa Luật
5 Tháng Sáu, 2021
Cần đưa giao dịch công nghệ lên sàn chứng khoán
Bộ Khoa học và Công nghệ
5 Tháng Sáu, 2021
Sự hữu ích của Lý thuyết trò chơi: Thảo luận về giải Nobel Kinh tế năm 2020
JABES
5 Tháng Sáu, 2021
Đoán định tư pháp: Xu thế mới trong hành nghề Luật
Khoa Luật
5 Tháng Sáu, 2021
Thiết kế đô thị: tầm nhìn vững chắc cho đô thị bền vững
Viện Đô thị thông minh và Quản lý
5 Tháng Sáu, 2021
Phục hồi du lịch và nỗ lực thoát khỏi vòng xoáy ảnh hưởng bởi Covid-19
Viện Đô thị thông minh và Quản lý
5 Tháng Sáu, 2021
Nghiên cứu Kinh tế học lao động trong sự biến động của thế giới
JABES
5 Tháng Sáu, 2021
Kết hợp Nghệ thuật và Công nghệ hướng đến Thành phố thông minh đáng sống
Viện Đô thị thông minh và Quản lý
5 Tháng Sáu, 2021
Chuỗi bài “The Basics of B2B”: Thị trường việc làm rộng mở nhiều sinh viên chuyên ngành Marketing đang bỏ quên
TS. Đinh Tiên Minh
5 Tháng Sáu, 2021
Môi trường không phải để nhà đầu tư xài miễn phí!
TS. Phạm Khánh Nam
5 Tháng Sáu, 2021
2021 sẽ là năm khởi đầu của chu kỳ tăng trưởng mới
PGS.TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
5 Tháng Sáu, 2021
Quỹ vaccine sẽ khả thi khi có người dân đóng góp
Phạm Khánh Nam, Việt Dũng
5 Tháng Sáu, 2021
Kích thích kinh tế, gia tăng vận tốc dòng tiền
Quách Doanh Nghiệp
5 Tháng Sáu, 2021
Đi tìm chiến lược hậu Covid-19 cho doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam
PGS TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo, ThS Lê Văn
5 Tháng Sáu, 2021
Insurtech – Cơ hội và thách thức cho Startup Việt
Ths. Lê Thị Hồng Hoa
5 Tháng Sáu, 2021