[Podcast] Chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế số ở Việt Nam

18 Tháng Hai, 2025

Từ khóa: Kinh tế số; chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của nhà nước; Việt Nam.

Kinh tế số đi liền với cách thức tổ chức kinh doanh và tổ chức quản lý mới đã làm biến đổi sâu sắc nhiều mặt của đời sống kinh tế – xã hội ở nhiều quốc gia trên thế giới. Sau 5 năm (2019-2024), thực hiện chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế số, Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực. Nghiên cứu của tác giả thuộc Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (UEH) sẽ tập trung trình bày vai trò của kinh tế số đối với phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam; những quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước về phát triển kinh tế số; và những kết quả bước đầu về phát triển kinh tế số ở Việt Nam hiện nay.

Thumb Lớn Thương Hiệu Học Thuật Mới (5)

Kinh tế số và vai trò của kinh tế số đối với phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam

Thuật ngữ “kinh tế số” lần đầu tiên được đề cập ở Nhật Bản vào thập niên 90 của thế kỷ XX. Đến năm 1995, Don Tapscott đặt tên cho một cuốn sách của mình với tựa đề Kinh tế kỹ thuật số: Hứa hẹn và hiểm họa trong kỷ nguyên của trí thông minh mạng. Năm 2001, Thomas Mesenbourg đưa ra ba thành phần chính của khái niệm “kinh tế số”: kết cấu hạ tầng kinh doanh điện tử, kinh doanh điện tửthương mại điện tử. Như vậy, thuật ngữ “kinh tế số” mặc dù được nêu ra trước thuật ngữ “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” vào năm 2011 tại Đức, nhưng nó chỉ chính thức được sử dụng phổ biến khi quan điểm về “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” được Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) nêu ra vào năm 2016. 

Hiện nay, ở Việt Nam, khái niệm kinh tế số được hiểu theo Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31-3-2022 của Thủ tướng Chính phủ, kinh tế số gồm: “Kinh tế số ICT là công nghiệp công nghệ thông tin và dịch vụ viễn thông; Kinh tế số nền tảng là hoạt động kinh tế của các nền tảng số, các hệ thống trực tuyến kết nối giữa cung và cầu và các dịch vụ trực tuyến trên mạng; Kinh tế số ngành là hoạt động kinh tế số trong các ngành, lĩnh vực. Trong đó, phát triển kinh tế số ICT với trọng tâm là doanh nghiệp, sản phẩm công nghệ số “Make in Việt Nam””.

Từ các khái niệm trên có thể hiểu: kinh tế số là hoạt động kinh tế sử dụng công nghệ số và dữ liệu số làm yếu tố đầu vào chính, sử dụng môi trường số làm không gian hoạt động chính, sử dụng công nghệ thông tin – viễn thông để tăng năng suất lao động, đổi mới mô hình kinh doanh và tối ưu hóa cấu trúc nền kinh tế.

Kinh tế số có những đặc điểm nổi bật: Nền kinh tế số có quy mô toàn cầu với nhiều thay đổi trong phân công lao động quốc tế và chuỗi giá trị toàn cầu, ít bị hạn chế bởi yếu tố địa lý; trong nền kinh tế số, phạm vi, cấu trúc của thị trường có sự thay đổi; mô hình sản xuất và vai trò của các doanh nghiệp trong kinh tế số có sự thay đổi; nền kinh tế số dựa trên nền tảng tri thức, hội tụ tri thức và kết nối tri thức không hạn chế; về mặt kỹ thuật, công nghệ, trong nền kinh tế số diễn ra quá trình số hóa và chuyển đổi số. 

Mặc dù đến nay, trên thế giới, mô hình phát triển kinh tế số vẫn còn tương đối mới, song kinh tế số đi liền với cách thức tổ chức kinh doanh và tổ chức quản lý mới đã làm biến đổi sâu sắc nhiều mặt của đời sống kinh tế – xã hội với tốc độ nhanh, phạm vi rộng và mang tính hệ thống. Việc áp dụng công nghệ mới, công nghệ số sẽ có nhiều ảnh hưởng rộng rãi tới các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức, làm thay đổi phương thức sản xuất, kinh doanh theo hướng tối ưu hóa, thông minh hóa; làm thay đổi phương thức làm việc, học tập, giải trí của con người; làm thay đổi mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước, thay đổi các phương thức thương mại quốc tế cũng như các phương tiện sản xuất trong nền kinh tế của mỗi quốc gia và toàn cầu.

Đối với Việt Nam, kinh tế số sẽ tạo ra cơ hội phát triển nhảy vọt cho các nước đi sau nhờ vào phương thức sản xuất mới, mô hình kinh doanh mới, vì kinh tế số không phải phát triển tuần tự mà là phát triển nhảy vọt với thị trường toàn cầu, không hạn chế về không gian và thời gian. Kinh tế số cũng tạo cơ hội tăng trưởng nhanh với số vốn thấp, chủ yếu cần tư duy, thể chế phù hợp và tri thức công nghệ, điều này rất phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, đặc biệt phát triển thành công kinh tế số sẽ góp phần sớm hiện thực hóa mục tiêu của Đại hội XIII (2021) của Đảng đề ra: “đến năm 2025, nước ta là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, nước ta là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao”. Bên cạnh những tiềm năng thế mạnh phát triển đất nước, phát triển kinh tế số cũng gây ra không ít khó khăn, thách thức như: Việc làm của người lao động bị giảm sút do việc sử dụng robot, trí tuệ nhân tạo thay thế lao động trực tiếp…; vấn đề quản lý nhà nước trong kinh tế số cũng gặp khó khăn như trong quản lý xuất, nhập khẩu hàng hóa phi vật lý, vấn đề về thuế; an ninh mạng, an ninh thông tin, quyền lợi của người tiêu dùng trên không gian số; vấn đề mâu thuẫn, xung đột, cạnh tranh giữa các loại hình, cơ chế kinh doanh truyền thống với những loại hình, cơ chế kinh doanh mới xuất hiện trong nền kinh tế số; sự gắn kết giữa người sử dụng lao động, nhân công và khách hàng ít chặt chẽ, chỉ theo các cam kết ngắn hạn.

Chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế số ở Việt Nam

Ngày 27-9-2019, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW “Về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, trong đó, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số là một nội dung lớn, quan trọng của Nghị quyết này. Về mục tiêu phát triển kinh tế số, Nghị quyết xác định:

Đến năm 2025: Xây dựng được hạ tầng số đạt trình độ tiên tiến của khu vực ASEAN; Internet băng thông rộng phủ 100% các xã. Kinh tế số chiếm khoảng 20% GDP; năng suất lao động tăng bình quân trên 7%/năm. Cơ bản hoàn thành chuyển đổi số trong các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội. Thuộc nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN trong xếp hạng chính phủ điện tử theo đánh giá của Liên hợp quốc. Có ít nhất 3 đô thị thông minh tại 3 vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, phía Nam và miền Trung.

Đến năm 2030: Mạng di động 5G phủ sóng toàn quốc; mọi người dân được truy cập Internet băng thông rộng với chi phí thấp. Kinh tế số chiếm trên 30% GDP; năng suất lao động tăng bình quân khoảng 7,5%/năm. Hoàn thành xây dựng Chính phủ số. Hình thành một số chuỗi đô thị thông minh tại các khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc, phía Nam và miền Trung; từng bước kết nối với mạng lưới đô thị thông minh trong khu vực và thế giới.

Đến năm 2045: Việt Nam trở thành một trong những trung tâm sản xuất và dịch vụ thông minh, trung tâm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo thuộc nhóm dẫn đầu khu vực Châu Á; có năng suất lao động cao, có đủ năng lực làm chủ và áp dụng công nghệ hiện đại trong tất cả các lĩnh vực kinh tế – xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh.

Chủ trương và chính sách cụ thể về phát triển kinh tế số được Nghị quyết nêu lên: Đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội; hoàn thiện thể chế tạo thuận lợi cho chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình chuyển đổi số quốc gia; chính sách phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu; chính sách phát triển và nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia; chính sách phát triển nguồn nhân lực; chính sách phát triển các ngành và công nghệ ưu tiên; chính sách hội nhập quốc tế; chính sách thúc đẩy chuyển đổi số trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội.

Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị đã thể hiện tương đối đầy đủ, hệ thống và đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong nhận thức của Đảng về chuyển đổi số và phát triển kinh tế số.

Tiếp đó, Đại hội XIII của Đảng về phát triển kinh tế số đã nhấn mạnh: “Đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế” và “Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số, coi đây là nhân tố quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”, đồng thời khẳng định: “Hệ thống pháp luật phải thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh tế mới”. Trong các mục tiêu phát triển đất nước, liên quan đến kinh tế số, Đại hội XIII xác định: đến năm 2025, kinh tế số đạt khoảng 20% GDP; đến năm 2030, kinh tế số đạt khoảng 30% GDP.

Các nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế số được Đại hội XIII đề ra là: “Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi để thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới”, đồng thời “Xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp lý, thử nghiệm cơ chế, chính sách đặc thù để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, kinh tế số, phát triển các mô hình kinh tế mới” để: “Thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế”, “xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại”, “chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số”.

Thực hiện chủ trương của Đảng, trong giai đoạn 2016 đến nay, Nhà nước đã tiếp tục hoàn thiện và ban hành những chính sách, pháp luật để đẩy mạnh chuyển đổi số và phát triển kinh tế số. 

Về pháp luật có: Luật Công nghệ thông tin (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Luật An ninh mạng năm 2018, Luật Thương mại (sửa đổi, bổ sung năm 2019), Luật tần số vô tuyến điện (sửa đổi, bổ sung năm 2022), Luật Khoa học và công nghệ (sửa đổi, bổ sung năm 2022), Luật Giao dịch điện tử năm 2023…

Ngoài luật, các nghị định, quyết định, chỉ thị, chương trình, đề án về phát triển kinh tế số của Chính phủ cũng được ban hành. Đặc biệt, Chính phủ đã có hai văn bản quan trọng về chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế số của Việt Nam: Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3-6-2020 và Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31-3-2022.

Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3-6-2020 về Phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, đã xác định nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế số: Thúc đẩy phát triển kinh tế số với trọng tâm là phát triển doanh nghiệp công nghệ số, chuyển dịch từ lắp ráp, gia công về công nghệ thông tin sang làm sản phẩm công nghệ số, công nghiệp 4.0, phát triển nội dung số, công nghiệp sáng tạo, kinh tế nền tảng, kinh tế chia sẻ, thương mại điện tử và sản xuất thông minh. Thúc đẩy chuyển đổi số trong các doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và cả nền kinh tế; Phát triển 04 loại hình doanh nghiệp công nghệ số; Chuyển dịch từ lắp ráp, gia công sang làm sản phẩm theo hướng “Make in Viet Nam” – sáng tạo tại Việt Nam, thiết kế tại Việt Nam và sản xuất tại Việt Nam; Phát triển sản phẩm nội dung số, truyền thông số, quảng cáo số; Xây dựng và triển khai Đề án Hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp ngành nghề truyền thống, doanh nghiệp sản xuất chuyển đổi sang cung cấp sản phẩm, dịch vụ trên các nền tảng số, sản xuất thông minh và từng bước thực hiện tái cấu trúc doanh nghiệp, nâng cao năng lực nội tại của doanh nghiệp và Phát triển thương mại điện tử.

Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31-3-2022 về Phê duyệt “Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, đã đề ra mục tiêu cơ bản nhằm phát triển kinh tế số ở Việt Nam đến năm 2025, năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045: Phát triển kinh tế số giúp người dân giàu có hơn, góp phần đưa Việt Nam vượt qua mức thu nhập trung bình thấp vào năm 2025, đạt mức thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và đạt mức thu nhập cao vào năm 2045”.

Những kết quả đạt được

Qua 5 năm (2019 – 2024), thực hiện chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế số, đến nay Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực: 

  • Trong lĩnh vực viễn thông, các doanh nghiệp viễn thông, internet ở Việt Nam đã phát triển vượt bậc và đạt mức doanh thu 6,1 tỷ USD, góp phần tạo ra hơn 851.000 việc làm cho xã hội. 
  • Thương mại điện tử cũng tăng trưởng vượt bậc về doanh thu và quy mô thị trường, hiện ở mức 5,2 tỷ USD. Xu hướng sáp nhập và mua lại giữa các doanh nghiệp thương mại điện tử tại Việt Nam cũng đã tăng trưởng đều cả về giá trị và số lượng thương vụ. Năm 2019, doanh thu thị trường bán lẻ Việt Nam ước đạt 211 tỷ USD, trong đó doanh thu thương mại điện tử đạt khoảng 10,4 tỷ USD tương ứng 4,92% thị phần bán lẻ của cả nước. Năm 2020, tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử của Việt Nam đạt khoảng 18% với quy mô khoảng 11,8 tỷ USD. Chỉ trong một thời gian ngắn, thương mại điện tử tại Việt Nam đã có sự bứt phá mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng trung bình từ 25% – 30%/năm, dự tính đạt mốc 50 tỷ USD chiếm khoảng 12% thị trường bán lẻ trong nước đến năm 2025
  • Các doanh nghiệp viễn thông đã đầu tư phát triển mạnh mẽ cơ sở hạ tầng đảm bảo sự phát triển bền vững trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Mạng di động 4G được triển khai rộng khắp với hơn 40.000 trạm, phủ sóng hơn 90% dân số. Việt Nam đã trở thành nước thứ 5 trên thế giới làm chủ công nghệ 5G, sản xuất được thiết bị hạ tầng 5G, sản xuất được điện thoại 5G. Các doanh nghiệp lớn như Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam, Tập đoàn Viễn thông Quân đội, Tổng Công ty Viễn thông Mobifone đã đầu tư nâng cấp, phát triển mới cáp quang, trạm BTS để cung cấp dịch vụ với chất lượng cao. Năm 2020, doanh thu ngành ICT Việt Nam ước đạt 120 tỷ USD, trong đó doanh thu công nghiệp phần cứng đạt trên 107 tỷ USD (gồm cả các doanh nghiệp FDI), doanh thu công nghiệp phần mềm đạt trên 5 tỷ USD, doanh thu công nghiệp nội dung số đạt trên 900 triệu USD.

Có thể khẳng định, quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế số là hướng đi đúng đắn để Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển đổi mô hình kinh tế. Trong bối cảnh hiện nay, để chuyển đổi số và phát triển kinh tế số thành công thì phát triển kinh tế số cần phải tiếp tục được coi là con đường, cách thức tốt nhất để tận dụng cơ hội rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát triển kinh tế số phải nhằm thúc đẩy cơ cấu lại, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, chuyển từ mô hình tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng sang mô hình tăng trưởng chủ yếu theo chiều sâu dựa vào tiến bộ khoa học công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Xa hơn, phát triển kinh tế số phải góp phần tích cực vào hiện thực hóa mục tiêu Đại hội XIII của Đảng thực hiện lộ trình để đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao, tính theo các tiêu chí, chuẩn mực quốc tế.

Xem toàn bộ bài nghiên cứu Chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế số ở Việt Nam TẠI ĐÂY.

Tác giả: TS. Hoàng Xuân Sơn – Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

Đây là bài viết nằm trong Chuỗi bài lan tỏa nghiên cứu và kiến thức ứng dụng từ UEH với thông điệp “Research Contribution For All – Nghiên Cứu Vì Cộng Đồng”, UEH trân trọng kính mời Quý độc giả cùng đón xem bản tin UEH Research Insights tiếp theo.

Tin, ảnh: Tác giả, Ban Truyền thông và Phát triển đối tác UEH

Giọng đọc: Thanh Kiều

Chân Trang (1)

Chu kỳ giảm giá của đồng USD?

TS. Đinh Thị Thu Hồng và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Việt Nam cần kịch bản cho thương mại tương lai

ThS. Tô Công Nguyên Bảo

26 Tháng Sáu, 2021

Hệ thống tiền tệ tiếp theo như thế nào?

TS. Lê Đạt Chí và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Chuyển đổi số trong khu vực công tại Việt Nam

Khoa Quản lý nhà nước

26 Tháng Sáu, 2021

Cần đưa giao dịch công nghệ lên sàn chứng khoán

Bộ Khoa học và Công nghệ

5 Tháng Sáu, 2021

Thiết kế đô thị: tầm nhìn vững chắc cho đô thị bền vững

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

Phục hồi du lịch và nỗ lực thoát khỏi vòng xoáy ảnh hưởng bởi Covid-19

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

2021 sẽ là năm khởi đầu của chu kỳ tăng trưởng mới

PGS.TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

5 Tháng Sáu, 2021

Quỹ vaccine sẽ khả thi khi có người dân đóng góp

Phạm Khánh Nam, Việt Dũng

5 Tháng Sáu, 2021

Kích thích kinh tế, gia tăng vận tốc dòng tiền

Quách Doanh Nghiệp

5 Tháng Sáu, 2021

Đi tìm chiến lược hậu Covid-19 cho doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam

PGS TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo, ThS Lê Văn

5 Tháng Sáu, 2021

Insurtech – Cơ hội và thách thức cho Startup Việt

Ths. Lê Thị Hồng Hoa

5 Tháng Sáu, 2021