[Podcast] Áp dụng cách thức lập dự toán dựa trên kết quả hoạt động tại các cơ sở giáo dục ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long
12 Tháng Chín, 2024
Từ khóa: lập dự toán, Đồng Bằng Sông Cửu Long, cơ sở giáo dục
Lập dự toán dựa trên kết quả hoạt động là xu hướng cải cách hiện nay trong giai đoạn “quản lý công mới” của nhiều quốc gia để sử dụng nguồn ngân sách hiệu quả. Tuy nhiên, thực hiện lập dự toán theo kết quả hoạt động vẫn chưa được thực hiện rộng rãi và cũng chưa có nhiều tài liệu hướng dẫn cho các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung ở Việt Nam, đặc biệt là các đơn vị thuộc lĩnh vực giáo dục – một trong những đơn vị chiếm tỷ trọng lớn. Do đó, tác giả Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (UEH) đã thực hiện nghiên cứu vấn đề này để hỗ trợ các đơn vị thuộc các cơ sở giáo dục ở các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long trong hoạt động lập dự toán.
Lập dự toán dựa trên kết quả hoạt động là xu hướng tất yếu
Việc cải cách hệ thống kế toán, ngân sách trong khu vực công được các quốc gia không ngừng thực hiện, nhằm ngăn chặn tình trạng tham nhũng nguồn ngân sách hạn hẹp một cách kịp thời. Ngoài ra, với mô hình Quản lý công mới (NPM) của xã hội hiện đại đã thúc đẩy cải cách quản lý khu vực công nhằm tư nhân hóa các đơn vị công và nhấn mạnh hơn vào kết quả hoạt động, trong đó có cải cách quản lý ngân sách dựa trên kết quả hoạt động đã ảnh hưởng đến cách thức lập dự toán của các đơn vị công. Do đó, cách thức lập dự toán mới dựa trên kết quả hoạt động là định hướng cải cách hiện nay trong giai đoạn “quản lý công mới” của nhiều quốc gia.
Quá trình lập dự toán ngân sách và xây dựng mục tiêu thể hiện cơ hội của các cơ quan quản lý để phát triển tầm nhìn và sứ mệnh, cũng như hiện thực hóa kỳ vọng và mong muốn của xã hội phù hợp với tiềm năng của các cơ quan quản lý. Tuy nhiên, việc thực hiện dự toán ngân sách phải đối mặt với những thách thức và không dễ dàng. Do đó, theo Liên hiệp quốc, trên cơ sở kinh nghiệm của các nước thành viên trong việc áp dụng cách thức lập dự toán dựa trên kết quả hoạt động thì các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng cách thức lập dự toán gồm các nguồn lực (như con người…), mục tiêu chương trình, kết quả của chương trình và kết quả mong đợi và các yếu tố bên ngoài khác tùy thuộc vào kết quả mong đợi.
Tại Việt Nam, mặc dù cách thức lập dự toán mới được Bộ Tài chính thí điểm từ năm 2009 ở một số tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) thông qua việc thí điểm xây dựng khuôn khổ chi tiêu trung hạn (MTEF), nhưng việc áp dụng cách thức lập dự toán này vẫn chưa được triển khai một cách rộng rãi cũng như chưa có tài liệu hướng dẫn rõ ràng.
Ngoài ra, tại hội nghị đánh giá thực trạng giáo dục mầm non, phổ thông khu vực ĐBSCL ở Cần Thơ năm 2019, đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) cũng đã chỉ ra rằng, thực trạng giáo dục và đào tạo tại các tỉnh, thành phố ở ĐBSCL còn nhiều bất cập trong việc phát triển giáo dục và phân bổ chi tiêu ngân sách địa phương. Các cơ sở giáo dục của vùng cần chủ động không phụ thuộc vào nguồn ngân sách nhà nước, trước mắt cần cân đối nguồn thu – chi một cách hợp lý, xây dựng chiến lược phát triển phù hợp nhằm đạt được mục tiêu tự chủ tài chính và đảm bảo chất lượng giáo dục. Để thực hiện được mục tiêu đó các cơ sở giáo dục phải xây dựng được dự toán dựa trên kết quả hoạt động. Cho nên việc nghiên cứu các nhân tố tác động đến việc vận dụng phương thức lập dự toán theo kết quả hoạt động tại các cơ sở giáo dục tại ĐBSCL là cần thiết.
Phương pháp lập dự toán ngân sách dựa trên kết quả hoạt động là gì?
Lập dự toán dựa trên kết quả hoạt động (gọi tắt PBB) là phương thức lập dự toán ngân sách dựa trên việc tiếp cận những thông tin đầu ra, để phân bổ và đánh giá việc sử dụng nguồn lực tài chính nhằm hướng vào việc đạt được mục tiêu chiến lược của đơn vị nói riêng và của chính phủ nói chung. Chính vì vậy, phương thức lập này gồm nhiều công đoạn như: Xác định sứ mệnh của đơn vị công; Xác định mục tiêu của đơn vị công; Xác định và định lượng đầu ra cần thực hiện để đạt được mục tiêu đề ra; Xác định và định lượng các hoạt động được thực hiện để đạt được mục tiêu; Chi phí hoạt động để đạt được các mục tiêu; So sánh chi phí với nguồn lực tài chính của đơn vị; Ưu tiên các hoạt động để phù hợp với nguồn lực tài chính được sử dụng.
Lợi ích của phương pháp lập dự toán dựa trên kết quả hoạt động trong đơn vị công
Phương pháp lập dự toán dựa trên kết quả hoạt động kết nối chi tiêu với kết quả bằng cách minh hoạ mối liên hệ giữa đầu vào, đầu ra và kết quả. Ngoài ra việc sử dụng phương thức lập dự toán này mang đến nhiều lợi ích như sau:
Thứ nhất, giúp tăng cường truyền thông tốt hơn giữa các thành viên lập ngân sách và công dân: Phương pháp này làm rõ các mục tiêu của chương trình và xác định mục tiêu kết quả hoạt động, mang lại cho các đơn vị và nhân viên cảm giác tốt hơn về kỳ vọng kết quả hoạt động. Ngoài ra còn giúp các nhà quản lý nhà nước truyền thông hiệu quả hơn về các hoạt động của họ, kết quả hoạt động và lợi ích công của các chương trình đến với công chúng.
Thứ hai, cải thiện hiệu quả và hiệu lực quản lý công trong các cơ quan nhà nước: các đơn vị công tăng tính linh hoạt và tự chủ để quản lý cung cấp dịch, do đó giúp tái cơ cấu các chương trình không thành công hoặc loại bỏ các chương trình không cần thiết thông qua việc đánh giá hiệu quả, dẫn đến tăng tính linh hoạt trong việc sử dụng các nguồn lực hiệu quả và hiệu lực hơn, và cung cấp thông tin tốt hơn cho người ra quyết định.
Thứ ba, thêm thông tin giúp việc ra các quyết định về ngân sách dễ dàng hơn: phương pháp lập này sẽ làm tăng thêm giá trị cho các cuộc thảo luận khi thông tin về kết quả hoạt động được đưa vào xem xét khi quyết định mức tài trợ. Với thông tin kết quả hoạt động thích hợp, các chính trị gia đang có thể gây áp lực cho các đơn vị cải tiến và hiểu rõ hơn về các vấn đề liên quan. Ngoài ra các thông tin về đo lường kết quả hoạt động tốt sẽ giúp các chính phủ so sánh kết quả hoạt động của các đơn vị với các nhà cung cấp khác; chọn mức độ và sự kết hợp các đầu ra mà các cơ quan cần được tài trợ để đạt được kết quả của chính phủ.
Thứ tư, giúp cải thiện trách nhiệm giải trình và tính minh bạch của các hoạt động của chính phủ: Lập dự toán dựa trên kết quả hoạt động được xem như một công cụ chính chứng minh về tính minh bạch và trách nhiệm đối với cơ quan lập pháp và công chúng. Mặt khác, phương pháp này phân loại nguồn lực theo chương trình và cung cấp phép đo lường các chỉ số kết quả hoạt động tốt hơn, nâng cao trách nhiệm giải trình, và làm cho các nhà quản lý có thêm trách nhiệm đối với các quyết định về các chương trình có ảnh hưởng đến kết quả ngân sách.
Ngoài ra, lập dự toán dựa trên kết quả hoạt động tạo điều kiện cho việc thực hiện kiểm toán, theo dõi, đánh giá và báo cáo về kết quả hoạt động. Hơn nữa, phương pháp này cải thiện hoạt động bằng cách kết nối ngân sách và kết quả hoạt động chương trình theo thời gian. Lập dự toán dựa trên kết quả hoạt động cũng giúp tiết kiệm chi phí, giảm các dịch vụ nhân đôi, và khuyến khích sự hiểu biết tốt hơn về hoạt động của chính phủ.
Áp dụng cách thức lập dự toán dựa trên kết quả hoạt động tại các cơ sở giáo dục ở các tỉnh ĐBSCL
Thực hiện nghiên cứu thông qua khảo sát phân tích với mẫu là 95 đối tượng lập dự toán của các cơ sở giáo dục ở một số tỉnh ĐBSCL Việt Nam, tác giả nhận thấy:
- Yếu tố thái độ cảm nhận về lợi ích tương đối của PBB rất quan trọng trong việc thực hiện PBB tại các cơ sở giáo dục ở ĐBSCL. Các cơ sở giáo dục đang chủ động thí điểm thực hiện cơ chế tự chủ để không phụ thuộc vào ngân sách, và thực hiện chủ trương đẩy mạnh công tác xã hội hóa, khuyến khích liên kết, hợp tác với các cá nhân, đơn vị có uy tín trong nước và ngoài nước để huy động các nguồn lực nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Từ đó các cơ sở giáo dục càng hiểu được tầm quan trọng của việc cân đối ngân sách một cách hiệu quả, và để thực hiện điều này thì cần sử dụng cách thức lập dự toán dựa trên kết quả hoạt động – PBB.
- Bên cạnh đó, sự hỗ trợ của tổ chức cũng ảnh hưởng rất cao đến việc áp dụng PBB tại các cơ sở giáo dục ở các tỉnh ĐBSCL. Kết quả này cho thấy được tầm quan trọng của những hỗ trợ từ tổ chức, đặc biệt là những hỗ trợ từ nhà quản lý thúc đẩy việc thực hiện PBB. Ngoài ra, sự quan tâm hỗ trợ từ các cơ sở giáo dục ở các tỉnh ĐBSCL là không tương đồng với nhau, một số cơ sở còn chưa có sự quan tâm và hỗ trợ để thực hiện phương thức lập dự toán dựa trên kết quả hoạt động. Nguyên nhân của vấn đề này có thể xuất phát từ chủ trương cơ chế tự chủ chỉ mới thí điểm ở một số tỉnh ở ĐBSCL và phụ thuộc vào đặc thù của từng vùng có chủ trương chính sách khác nhau. Ngoài ra, các cơ sở giáo dục ở một số tỉnh ĐBSCL cũng chưa mạnh dạn hỗ trợ thực hiện PBB vì chưa có được bộ chỉ số đánh giá kết quả hoạt động trong giáo dục rõ ràng.
Hàm ý chính sách cho các cơ sở giáo dục ĐBSCL
Từ kết quả trên, tác giả đã đề xuất các hàm ý chính sách để thực hiện hiệu quả việc áp dụng cách thức lập dự toán dựa trên kết quả hoạt động tại các cơ sở giáo dục gồm:
*Đối với với các cơ sở giáo dục: Xác định được các tác nhân ảnh hưởng đến việc vận dụng cách thức lập dự toán dựa trên kết quả hoạt động cũng như mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này. Đó là thái độ tích cực liên quan đến lợi ích tương đối của cách thức lập dự toán dựa trên kết quả hoạt động và sự hỗ trợ của tổ chức.
*Về phía Bộ tài chính, Bộ GD&ĐT và các cơ quan có thẩm quyền: Cần hỗ trợ các cơ sở giáo dục ở các tỉnh ĐBSCL thông qua việc rà soát các chính sách và tham mưu với Chính phủ ban hành các chính sách để hỗ trợ, tạo điều kiện thuận cho các cơ sở giáo dục phát triển chất lượng giáo dục ở các tỉnh ĐBSCL, đặc biệt nhanh chóng ban hành các chỉ số đánh giá giáo dục địa phương, qua đó đánh giá được chất lượng giáo dục của từng địa phương, từng vùng cũng là cơ sở đầu ra để các cơ sở giáo dục lập dự toán đơn vị một cách phù hợp. Ngoài ra còn phải tăng cường hỗ trợ và ban hành các chính sách phù hợp để tạo cơ chế tự chủ cho các địa phương, nhằm tạo điều kiện để các địa phương có thể cân đối được thu chi, góp phần giảm bớt gánh nặng cho NSNN. Cũng như tích cực đẩy mạnh chủ trương công tác xã hội hóa giáo dục, khuyến khích các cơ sở giáo dục chủ động liên kết và hợp tác với các cá nhân, đơn vị uy tín trong nước và nước ngoài để huy động nguồn lực giảm bớt phụ thuộc vào NSNN và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển giáo dục.
(1) Thái độ tích cực về lợi ích tương đối của PBB
Thách thức lớn nhất liên quan đến việc vận dụng phương thức lập dự toán dựa trên kết quả hoạt động tại các cơ sở giáo dục là làm sao để các cơ sở giáo dục sử dụng thông tin về kết quả hoạt động và đưa những thông tin kết quả hoạt động vào quá trình lập dự toán. Do đó chính quyền địa phương và chính quyền trung ương phải thực hiện các bước xây dựng hệ thống quản lý dựa trên kết quả hoạt động và hệ thống đo lường hiệu quả hoạt động, cũng như hiểu rõ vai trò của lập dự toán như là công cụ lập kế hoạch và kiểm soát. Hiện nay các đơn vị công nói chung còn bị ảnh hưởng bởi cách thức lập dự toán truyền thống tập trung vào đầu vào, cho nên các cơ quan chính quyền cần yêu cầu các đơn vị công bổ sung thêm thông tin kết quả hoạt động; các thước đo và chỉ số đo lường trong các tài liệu dự toán để làm cơ sở ra quyết định liên quan đến ngân sách, từ đó giúp cho các đơn vị công hiểu được tầm quan trọng cũng như lợi ích của lập dự toán dựa trên kết quả hoạt động.
Ngoài ra để nâng cao thái độ tích cực đối với PBB thì các cơ quan nhà nước cần thực hiện đánh giá hiệu quả hoạt động của các đơn vị cơ sở giáo dục dựa trên kết quả hoạt động. Bên cạnh đó trao quyền tự chủ cho các đơn vị để các đơn vị mạnh dạn trong việc vận dụng cách thức lập dự toán theo kết quả hoạt động để quản lý nguồn lực hiệu quả hơn. Mặc dù hiện nay đã có một số văn bản pháp lý về cơ chế tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập, tuy nhiên để các đơn vị tự chủ hơn, mạnh dạn xóa bỏ văn hóa quản lý cũng như lập dự toán theo truyền thống, có thể vận dụng cách thức lập dự toán theo kết quả hoạt động vào các cơ sở giáo dục thì đòi hỏi phải có sự hài hòa giữa các cơ sở giáo dục và các cơ quan quản lý nhà nước, trong đó các cơ quan quản lý cần từng bước xóa bỏ các rào cản về các thủ tục, từng bước linh hoạt và đơn giản hóa các thủ tục.
Bên cạnh đó, chính phủ cũng như các cơ sở giáo dục thường xuyên truyền thông chủ trương đánh giá và ra quyết định dựa trên kết quả hoạt động qua các kênh khác nhau. Ngoài ra, yếu tố con người là yếu tố quan trọng có thể cản trở việc vận dụng PBB, do đó để vận được PBB thì tại các đơn vị công cũng phải có định nghĩa rõ ràng về các chỉ số kết quả hoạt động ở cấp đơn vị mình, cũng như thường xuyên bồi dưỡng cho các nhân viên làm chính sách và nhân viên lập dự toán hiểu được những lợi ích của lập dự toán dựa trên kết quả hoạt động. Từ đó các đơn vị cơ sở giáo dục mới mạnh dạn trong việc lập dự toán dựa trên kết quả hoạt động để quản lý nguồn lực hiệu quả hơn.
(2) Tăng cường sự hỗ trợ của tổ chức
Các cơ sở giáo dục khi sử dụng cách thức dự toán khác phải xem xét quan điểm của cả hệ thống, phải thúc đẩy và khuyến khích suy nghĩ của người sử dụng, phải xem xét đầy đủ các hình thức khuyến khích trong khu vực công gồm tiền lương, địa vị và động lực vai trò cá nhân và cả sự hợp tác và thành tích trong đơn vị.
Ngoài ra các đơn vị trước hết phải có kế hoạch chiến lược, có chỉ số đo lường kết quả hoạt động được xem xét và ngân sách phân bổ thay đổi dựa trên các chỉ số hiệu suất. Các đơn vị tự quyết định các chỉ số hoạt động dựa trên nhu cầu của đơn vị. Đối với lập kế hoạch ngân sách trong đơn vị cần phân cấp thẩm quyền xây dựng Khung Chi Tiêu Trung Hạn (MTEF) cho các đối tượng liên quan cấp thấp được thực hiện ở mức độ thấp rồi tổng hợp lên cho cấp đơn vị. Do đó các cơ sở giáo dục nên bồi dưỡng và đào tạo cho nhân viên những kiến thức bổ sung, hoặc cử nhân viên tham dự các buổi hội thảo về khung chi tiêu trung hạn, đồng thời tạo cơ hội cho nhân viên tham gia lập kế hoạch chiến lược và lập dự toán ngân sách của đơn vị.
Mỗi cơ sở giáo dục nên bố trí hệ thống giám sát và báo cáo hiệu quả để đảm bảo rằng hoạt động của mỗi đơn vị có thể đạt được mục tiêu hoặc mục đích nêu trong kế hoạch chiến lược. Hơn nữa, việc thực hiện tất cả các hoạt động trong từng dự án nằm trong kế hoạch hành động hàng năm cần được tính toán và so sánh với các tiêu chí, mục tiêu được xác định cho từng năm tài chính. Thông tin đó sẽ được sử dụng như một hướng dẫn để giúp cải thiện hơn nữa trong năm tới, để mỗi tổ chức có thể điều chỉnh việc phân bổ dự toán ngân sách của mình sao cho phù hợp hơn với hiệu suất thực tế và tương ứng một cách hiệu quả với mục tiêu của mình.
Xem toàn bộ bài Nghiên cứu việc áp dụng cách thức lập dự toán dựa trên kết quả hoạt động tại các cơ sở giáo dục ở các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long Việt Nam TẠI ĐÂY.
Tác giả: TS. Lê Thị Cẩm Hồng – Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Đây là bài viết nằm trong Chuỗi bài lan tỏa nghiên cứu và kiến thức ứng dụng từ UEH với thông điệp “Research Contribution For All – Nghiên Cứu Vì Cộng Đồng”, UEH trân trọng kính mời Quý độc giả cùng đón xem bản tin UEH Research Insights tiếp theo.
Tin, ảnh: Tác giả, Phòng Marketing – Truyền thông UEH
Giọng đọc: Thanh Kiều
[Podcast] UEH hướng đến trung hòa carbon: Bước đi đầu tiên
22 Tháng Tám, 2024
[Podcast] Kinh tế tuần hoàn – Chìa khóa đạt được phát triển bền vững
16 Tháng Tám, 2024
[Podcast] Giải pháp nâng cao hoạt động vận động cho sinh viên
9 Tháng Tám, 2024
[Podcast] Phong Cách Lãnh Đạo Đạo Đức Và Hành Vi Ngoài Vai Trò Của Công Chức
29 Tháng Bảy, 2024
[Podcast] Định Hình Chiến Lược Phát Triển Toàn Diện, Bền Vững Cho Đất Nước
25 Tháng Bảy, 2024
[Podcast] Mô Hình Đại Học Bền Vững Dành Cho Các Thị Trường Mới Nổi
19 Tháng Bảy, 2024
[Podcast] Những Tiếp Cận Mới Nhất Dành Cho Các Đại Học Bền Vững
11 Tháng Bảy, 2024
[Podcast] Tác Động Của Nguồn Nhân Lực Xanh Đến Các Mục Tiêu Về Môi Trường
24 Tháng Năm, 2024
Kinh Tế Xã Hội Và Sự Phát Thải CO2 Ở Việt Nam Giai Đoạn 1990 – 2018
23 Tháng Năm, 2024
Pháp Luật Dữ Liệu – Kỳ 1: Cần Một Cách Tiếp Cận Mới
15 Tháng Năm, 2024
[Podcast] Pháp Luật Dữ Liệu – Kỳ 1: Cần Một Cách Tiếp Cận Mới
14 Tháng Năm, 2024
Đánh Giá Quảng Cáo Trên Nền Tảng Tiktok
8 Tháng Năm, 2024
[Podcast] Đánh Giá Quảng Cáo Trên Nền Tảng Tiktok
7 Tháng Năm, 2024
[podcast] Phản Ứng Của Chính Sách Xã Hội Đối Với Đại Dịch Covid-19 Ở Một Số Quốc Gia (Kỳ 1)
8 Tháng Mười Hai, 2023
Promoting Learner Autonomy in English Language Learning (Part 2)
28 Tháng Mười Một, 2023
[Podcast] Ngoại giao kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế
10 Tháng Mười Một, 2023
ArtTech and sustainable development
27 Tháng Mười, 2023
Cộng đồng ArtTech đầu tiên tại Việt Nam – Một năm nhìn lại
9 Tháng Mười, 2023
ArtTech – Một xu hướng tương lai
5 Tháng Mười, 2023
ArtTech và phát triển bền vững
3 Tháng Mười, 2023
[Podcast] Máy Tính Và Công Nghệ “Không Đi Một Mình” – Phần 4
24 Tháng Bảy, 2023
[Podcast] Tác Động Của Đồng Tiền Kỹ Thuật Số Đến Tỷ Giá Hối Đoái
14 Tháng Mười Một, 2022
[Podcast] Chuyển Đổi Số Trong Ngành Du Lịch Việt Nam
5 Tháng Năm, 2022
[Podcast] Chuyển Đổi Số Trong Lĩnh Vực Y Tế Ở Việt Nam
25 Tháng Ba, 2022
[Podcast] Phân Tích Dữ Liệu Con Người Tại Việt Nam
18 Tháng Ba, 2022
[Podcast] Chuyển Đổi Số Trong Nông Nghiệp Ở Việt Nam
11 Tháng Ba, 2022
[Podcast] Mô Hình Kinh Tế Chia sẻ: Các Vấn Đề Quản Lý Ở Việt Nam
21 Tháng Một, 2022
[Podcast] Nâng Cao Trải Nghiệm Khách Hàng Trực Tuyến Trong Ngành Du Lịch
15 Tháng Một, 2022
[Podcast] Chính Sách Lao Động Việc Làm Cho TP. HCM Trong Giai Đoạn Sau Giãn Cách
28 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Xây Dựng Thị Trường Chứng Khoán Phi Tập Trung Dựa Trên Công Nghệ Blockchain
24 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Học Tập Suốt Đời Trong Thế Giới Số: Góc Nhìn Từ Nghề Nghiệp Kế Toán, Kiểm toán
21 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Học Tập Suốt Đời Tại UEH: Hướng Đến Đại Học Bền Vững
14 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Xu Hướng Kinh Doanh Bán Lẻ Trực Tuyến Thời Kỳ Covid
10 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Big Data Cho Mục Tiêu Phát Triển Bền Vững: Kinh Nghiệm Quốc Tế
7 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Cải Cách Luật Đất Đai Để Thúc Đẩy Phát Triển Kinh Tế
2 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Cuộc Cách Mạng Trong Kinh Tế Học Thực Nghiệm
30 Tháng Mười Một, 2021
[Podcast] Chỉ Số Giá Tiêu Dùng Từ Góc Nhìn Khai Thác Dữ Liệu Lớn (Big Data)
17 Tháng Mười Một, 2021
[Podcast] Toàn Cảnh Tiền Tệ Kỹ Thuật Số – Phần 5 : Tiền Ổn Định Tư Nhân Diem
5 Tháng Mười Một, 2021
Đứt gãy chuỗi cung ứng vùng trọng điểm phía Nam: 8 giải pháp
20 Tháng Mười, 2021
[Podcast]Toàn Cảnh Tiền Tệ Kỹ Thuật Số – Phần 2: Những Cột Mốc Phát Triển
19 Tháng Mười, 2021
[Podcast] Toàn cảnh tiền tệ kỹ thuật số – Phần 1: Xu thế của thời đại
15 Tháng Mười, 2021
NGÂN HÀNG BẮT TAY FINTECH (Phần 3): Các Giải Pháp Hỗ Trợ
8 Tháng Mười, 2021
UEH chủ trì thành công Hội thảo ICBF 2021
7 Tháng Mười, 2021
GRSD 2021- Hội thảo khoa học “Tăng trưởng xanh và phát triển bền vững”
6 Tháng Mười, 2021
NGÂN HÀNG BẮT TAY FINTECH (phần 2): Chọn đối tác theo tiêu chí nào?
4 Tháng Mười, 2021
‘Đổi mới giáo dục nghề nghiệp là động cơ tăng trưởng kinh tế’
30 Tháng Chín, 2021
Giải pháp “mở cửa” an toàn với các khu công nghiệp tại TP Hồ Chí Minh
27 Tháng Chín, 2021
Khi cuộc sống “bình thường mới”, nơi ở cho người lao động cần được quan tâm
9 Tháng Chín, 2021
Hướng phát triển mô hình đào tạo luân phiên (Dual Education) tại Việt Nam
6 Tháng Chín, 2021
Webinar: Tương lai ngành Thẩm định giá trong thập niên mới
17 Tháng Tám, 2021
Hãy là người dùng thông minh khi đón nhận và chia sẻ thông tin
9 Tháng Tám, 2021
Webinar: An toàn thông tin kế toán trong kỷ nguyên số
3 Tháng Tám, 2021
Có nên đưa lãi suất tiền gửi VND về 0 phần trăm?
20 Tháng Bảy, 2021
Chu kỳ giảm giá của đồng USD?
TS. Đinh Thị Thu Hồng và nhóm nghiên cứu
26 Tháng Sáu, 2021
Việt Nam cần kịch bản cho thương mại tương lai
ThS. Tô Công Nguyên Bảo
26 Tháng Sáu, 2021
Hệ thống tiền tệ tiếp theo như thế nào?
TS. Lê Đạt Chí và nhóm nghiên cứu
26 Tháng Sáu, 2021
Chuyển đổi số trong trường đại học: Dạy học trực tuyến sẽ trở thành xu hướng tất yếu
GS.TS. Nguyễn Trọng Hoài
26 Tháng Sáu, 2021
Tiền số ngân hàng Trung ương – Vận hành và thử nghiệm
Châu Văn Thành
26 Tháng Sáu, 2021
Chuyển đổi số trong khu vực công tại Việt Nam
Khoa Quản lý nhà nước
26 Tháng Sáu, 2021
“Cấp cứu” doanh nghiệp trước làn sóng COVID-19 thứ 4
23 Tháng Sáu, 2021
Chuyên gia UEH: Việt Nam nên kết hợp tiêm vaccine miễn phí và dịch vụ
23 Tháng Sáu, 2021
Hội thảo khoa học về Thị trường bảo hiểm Việt Nam (Conference on Vietnam’s Insurance Industry – CVII)
Khoa Toán – Thống Kê
7 Tháng Sáu, 2021
Muốn có trung tâm tài chính phải có chiến lược thích ứng
Khoa Tài chính
5 Tháng Sáu, 2021
Bảo vệ thông tin cá nhân trong thời kỳ chuyển đổi số dưới góc nhìn pháp luật
Khoa Luật
5 Tháng Sáu, 2021
Cần đưa giao dịch công nghệ lên sàn chứng khoán
Bộ Khoa học và Công nghệ
5 Tháng Sáu, 2021
Sự hữu ích của Lý thuyết trò chơi: Thảo luận về giải Nobel Kinh tế năm 2020
JABES
5 Tháng Sáu, 2021
Đoán định tư pháp: Xu thế mới trong hành nghề Luật
Khoa Luật
5 Tháng Sáu, 2021
Thiết kế đô thị: tầm nhìn vững chắc cho đô thị bền vững
Viện Đô thị thông minh và Quản lý
5 Tháng Sáu, 2021
Phục hồi du lịch và nỗ lực thoát khỏi vòng xoáy ảnh hưởng bởi Covid-19
Viện Đô thị thông minh và Quản lý
5 Tháng Sáu, 2021
Nghiên cứu Kinh tế học lao động trong sự biến động của thế giới
JABES
5 Tháng Sáu, 2021
Kết hợp Nghệ thuật và Công nghệ hướng đến Thành phố thông minh đáng sống
Viện Đô thị thông minh và Quản lý
5 Tháng Sáu, 2021
Chuỗi bài “The Basics of B2B”: Thị trường việc làm rộng mở nhiều sinh viên chuyên ngành Marketing đang bỏ quên
TS. Đinh Tiên Minh
5 Tháng Sáu, 2021
Môi trường không phải để nhà đầu tư xài miễn phí!
TS. Phạm Khánh Nam
5 Tháng Sáu, 2021
2021 sẽ là năm khởi đầu của chu kỳ tăng trưởng mới
PGS.TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
5 Tháng Sáu, 2021
Quỹ vaccine sẽ khả thi khi có người dân đóng góp
Phạm Khánh Nam, Việt Dũng
5 Tháng Sáu, 2021
Kích thích kinh tế, gia tăng vận tốc dòng tiền
Quách Doanh Nghiệp
5 Tháng Sáu, 2021
Đi tìm chiến lược hậu Covid-19 cho doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam
PGS TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo, ThS Lê Văn
5 Tháng Sáu, 2021
Insurtech – Cơ hội và thách thức cho Startup Việt
Ths. Lê Thị Hồng Hoa
5 Tháng Sáu, 2021