[Research Contribution] Phát triển bền vững – Góc nhìn đa chiều về hạnh phúc

8 Tháng Mười, 2025

Từ khóa: Hạnh phúc quốc gia, phát triển bền vững, Châu Á – Thái Bình Dương, môi trường; giáo dục; tự do kinh tế; CO; tiếp cận điện.

Áp lực về nhiều cuộc khủng hoảng hội tụ, bao gồm các thách thức về sinh thái, xã hội, và kinh tế, GDP không còn là một thước đo đáp ứng đủ sự kỳ vọng của xã hội về một cuộc sống hạnh phúc. Nghiên cứu “Phát triển bền vững – Góc nhìn đa chiều về hạnh phúc” của tác giả thuộc Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (UEH) đã phân tích 24 quốc gia thuộc khu vực Châu Á – Thái Bình Dương trong giai đoạn 2014 đến 2022 nhấn mạnh sự hài hòa giữa 3 trụ cột kinh tế – xã hội – môi trường trong tiến trình phát triển bền vững của cộng đồng.

Thumb Lớn Thương Hiệu Học Thuật Mới

Thước đo nào cho sự thịnh vượng của một quốc gia?

Trong nhiều thập kỷ qua, GDP và các chỉ số kinh tế vĩ mô được xem là thước đo chủ đạo cho sự phát triển của một quốc gia. Tuy vậy, thực tiễn phát triển tại nhiều quốc gia châu Á–Thái Bình Dương cho thấy, tăng trưởng kinh tế cần đi đôi với sự gia tăng mức độ hài lòng và chất lượng cuộc sống của người dân. Các thách thức về bất bình đẳng xã hội, ô nhiễm môi trường, suy giảm niềm tin thể chế và sức ép đô thị hóa ngày càng bộc lộ hạn chế của cách tiếp cận chỉ thuần túy dựa vào tăng trưởng. Trước bối cảnh đó, hạnh phúc quốc gia trở thành tâm điểm trong các cuộc bàn luận về chiến lược phát triển bền vững, được xem như một thước đo thay thế, phản ánh toàn diện hơn về phúc lợi và chất lượng cuộc sống. Cách tiếp cận này phù hợp với xu thế quốc tế, thể hiện qua khung đo lường Gross National Happiness (GNH) của Bhutan và Sustainable Development Goals (SDGs) của Liên Hợp Quốc. Việc phân tích các yếu tố quyết định hạnh phúc quốc gia ngày càng trở nên quan trọng, đặc biệt tại khu vực châu Á–Thái Bình Dương, nơi vừa tăng trưởng nhanh vừa đối diện với nhiều rủi ro môi trường, qua đó mang lại cả giá trị học thuật và hàm ý thực tiễn.

Nỗ lực nào cho hành trình khám phá bí quyết của một quốc gia hạnh phúc 

Với mẫu nghiên cứu từ 24 quốc gia thuộc khu vực Châu Á – Thái Bình Dương trong giai đoạn 2014 – 2022 thu thập từ “World Happiness Report”. Nhóm tác giả xem xét các biến số thuộc 3 trụ cột phát triển bền vững gồm tỷ lệ đất nông nghiệp, lượng khí thải CO2/GDP, điểm số tiếp cận điện, xếp hạng tham nhũng, chi tiêu giáo dục, tuổi thọ, tiêu thụ vật chất nội địa và tự do kinh tế trong sự tác động đến hạnh phúc quốc gia. Bằng mô hình dữ liệu bảng POLS, FEM, REM, các kiểm định chẩn đoán và ước lượng khắc phục FGLS, GMM để xử lý sai số và khả năng nội sinh nhóm nghiên cứu đã đạt được mục tiêu kiểm định mối liên hệ giữa các biến số bền vững và hạnh phúc quốc gia.

Đất nông nghiệp: Theo tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), đất nông nghiệp là đất có thể canh tác và trồng cây lâu năm hoặc chăn thả gia súc lâu năm bao gồm đất trồng cây tạm thời như ngũ cốc, đồng cỏ, đất trồng rau, vườn cây ăn quả,… Đồng cỏ lâu năm là đất được sử dụng trong năm năm trở lên để làm thức ăn chăn nuôi, bao gồm cây trồng tự nhiên và cây trồng. Các chỉ số môi trường bổ sung bao gồm đất nông nghiệp hữu cơ và đất trồng trọt chuyển gen. Chỉ số này được trình bày dưới dạng tổng diện tích và theo từng loại đất nông nghiệp và được đo bằng ha và tỷ lệ phần trăm. 

Cường độ carbon: Tổng lượng khí thải Carbon dioxide (CO2) hàng năm được đo bằng kilogam trên mỗi đô la GDP dựa trên lượng khí thải theo lãnh thổ, không bao gồm lượng khí thải từ hàng hóa thương mại. Lượng khí thải từ hàng không và vận tải biển quốc tế không được tính vào lượng khí thải của bất kỳ quốc gia hay khu vực nào (Our World in data, 2024)

Tiếp cận điện: Tiếp cận điện năng là tỷ lệ phần trăm dân số được tiếp cận điện năng. Dữ liệu điện khí hóa được thu thập từ các ngành công nghiệp, khảo sát quốc gia và các nguồn quốc tế. (World Bank, 2024). Định nghĩa này về tiếp cận năng lượng đóng vai trò là chuẩn mực để đo lường tiến độ hướng tới Mục tiêu Phát triển Bền vững 7.1. Tiếp cận điện năng yêu cầu một hộ gia đình phải có khả năng tiếp cận ban đầu với đủ điện để đáp ứng nhu cầu cơ bản hàng ngày. Bên cạnh đó, Liên Hợp Quốc áp dụng phương pháp tiếp cận Đa tầng của Ngân hàng Thế giới đối với điện khí hóa. 

Chỉ số nhận thức tham nhũng: Theo Tổ chức Minh bạch Thế giới (Transparency World), tham nhũng được định nghĩa là việc lạm dụng quyền lực được giao để trục lợi cá nhân. Chỉ số Nhận thức Tham nhũng (CPI)  là bảng xếp hạng tham nhũng toàn cầu được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới, đo lường mức độ tham nhũng của mỗi quốc gia, theo đánh giá của các chuyên gia và doanh nhân. Điểm số của một quốc gia là mức độ tham nhũng trong khu vực công, được đánh giá trên thang điểm từ 0 đến 100, trong đó 0 là tham nhũng cao và 100 là rất trong sạch.

Chi tiêu cho giáo dục: Theo tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), giáo dục là một phần cơ bản của xã hội loài người hiện đại. Cơ hội giáo dục càng dễ tiếp cận ở một quốc gia và trình độ giáo dục của xã hội đó càng cao thì phúc lợi chung của xã hội đó càng cao. Chi tiêu công cho giáo dục là chi tiêu trực tiếp của các tổ chức công cho các tổ chức giáo dục cũng như các khoản trợ cấp công liên quan đến giáo dục cho các hộ gia đình do các tổ chức giáo dục quản lý. Các thực thể công bao gồm các bộ khác ngoài Bộ Giáo dục, chính quyền địa phương và khu vực, và các cơ quan công khác. Chi tiêu bao gồm chi tiêu cho trường học, trường đại học, hỗ trợ các dịch vụ giáo dục. Chỉ số này được thể hiện dưới dạng phần trăm GDP.

Sức khỏe – Tuổi thọ trung bình khi sinh: Theo WHO, số năm trung bình mà một người sồng trong tình trạng sức khỏe khỏe mạnh không bị hạn chế bởi bệnh tật và/hoặc thương tích. Tuổi thọ trung bình khi sinh là một trong những chỉ số được sử dụng phổ biến nhất để đánh giá tình trạng sức khỏe. Sự gia tăng tuổi thọ trung bình khi sinh có thể là do một số yếu tố, bao gồm mức sống tăng lên, lối sống được cải thiện và giáo dục tốt hơn, cũng như khả năng tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe chất lượng. Chỉ số này được đo bằng năm cho toàn bộ dân số và theo giới tính .

Tiêu thụ vật liệu trong nước bình quân đầu người: Theo OECD, tiêu thụ vật liệu nội địa (DMC) là lượng vật liệu (theo trọng lượng) được sử dụng trong một nền kinh tế. Tức là, vật liệu được khai thác hoặc thu hoạch trong nước, cộng với vật liệu và sản phẩm nhập khẩu, trừ đi vật liệu và sản phẩm xuất khẩu. Dữ liệu bao gồm kim loại, khoáng sản phi kim loại (khoáng sản xây dựng, khoáng sản công nghiệp), sinh khối (gỗ, thực phẩm) và các chất mang năng lượng hóa thạch. Chỉ số này được đo bằng tấn bình quân đầu người. Chỉ số DMC đánh giá mức độ sử dụng tài nguyên tuyệt đối và cho phép phân biệt mức tiêu thụ do nhu cầu trong nước thúc đẩy với mức tiêu thụ do thị trường xuất khẩu thúc đẩy. 

Chỉ số Tự do Kinh tế: Tự do kinh tế là quyền cơ bản của mỗi con người được kiểm soát sức lao động và tài sản của mình. Trong một xã hội tự do kinh tế, cá nhân được tự do làm việc, sản xuất, tiêu dùng và đầu tư theo bất kỳ cách nào họ chọn. Trong những xã hội như vậy, chính phủ cho phép lao động, vốn và hàng hóa được tự do di chuyển và chỉ hạn chế hoặc giới hạn quyền tự do ở mức độ cần thiết để bảo vệ và duy trì quyền tự do đó. Trong báo cáo của Viện Fraser (2003), chỉ số tự do kinh tế được chia thành năm loại chính: (i) quy mô của chính phủ: chi tiêu, thuế và doanh nghiệp; (ii) cấu trúc pháp lý và bảo vệ quyền sở hữu; (iii) tiếp cận tiền tệ lành mạnh; (iv) tự do kinh tế để tham gia vào thương mại quốc tế; và (v) quy định, tín dụng và kinh doanh. Các chỉ số toàn diện nhất về tự do kinh tế hiện nay là Chỉ số Tự do Kinh tế của Heritage Foundation và Wall Street Journal và Tự do Kinh tế Thế giới của Viện Fraser (Rok Spruk, 2016).

Chỉ số hạnh phúc quốc gia: Tổng Hạnh phúc Quốc gia (GNH) được coi là một thước đo tiến bộ khác, chứ không phải là một đơn vị tiền tệ. Thực tế, sự phát triển của khái niệm này là kết quả của việc tìm kiếm một chỉ số toàn diện và mang tính tâm lý hơn GDP, và thước đo GNH là một phương án thay thế thường được đề cập khi thảo luận về tiến bộ, chất lượng cuộc sống và/hoặc phát triển xã hội (Giannetti và cộng sự, 2015). Việc sử dụng GDP để đo lường hạnh phúc của một quốc gia đã không còn được ưa chuộng trên toàn thế giới. Liên Hợp Quốc và Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đều ủng hộ hạnh phúc như một Mục tiêu chính sách của chính phủ, đây là một dấu hiệu đáng khích lệ, với nhiều tổ chức ủng hộ việc xem xét hạnh phúc vượt ra ngoài GDP (Rojas, 2019). Thước đo Hạnh phúc không chỉ đánh giá thu nhập mà còn cả hoàn cảnh của người dân về sức khỏe, gia đình và các khía cạnh khác của hạnh phúc, những yếu tố thậm chí còn quan trọng hơn cả vật chất và tiền bạc. (Kaklauskas và cộng sự, 2020). Fanning và O’Neill (2019) đã chỉ ra rằng hạnh phúc trung bình giảm đáng kể ở các quốc gia có mức tiêu thụ bình quân đầu người giảm, được đo bằng lượng khí thải carbon hoặc tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Mặt khác, các thước đo tính bền vững và thước đo hạnh phúc cho thấy mối tương quan tích cực, trong đó các quốc gia  hạnh phúc hơn  trung bình  bền vững  hơn (Fanning và O’Neill, 2019). 

Các phát hiện chính, đề xuất và kiến nghị

Nhằm theo đuổi chủ đề phát triển bền vững và đóng góp vào hành trình xây dựng “hạnh phúc bền vững” của cộng đồng, nghiên cứu này đưa ra các khuyến nghị cho các bên liên quan dựa trên kết quả thực nghiệm tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Thông qua những nỗ lực nghiên cứu và phân tích dữ liệu, nghiên cứu này ủng hộ quan điểm của các nghiên cứu trước đây, nhấn mạnh sự cần thiết phải cân bằng ba trụ cột phát triển bền vững: môi trường, xã hội kinh tế. Đây không chỉ là trách nhiệm của các nhà lãnh đạo, chính quyền hay bất kỳ cơ quan hoạch định chính sách nào, mà tầm quan trọng được đề cập ở đây là trách nhiệm và hành động của mỗi cá nhân, mỗi tổ chức trong cộng đồng, mỗi chúng ta là một mắt xích trong chuỗi phát triển bền vững của hành tinh. 

Nhóm nghiên cứu đưa ra một số góc nhìn mới dựa trên nền tảng cũ:

Thứ nhất, giảm diện tích đất nông nghiệp sẽ thúc đẩy hạnh phúc quốc gia, điều này hàm ý cho các nhà lãnh đạo, chính phủ và các cơ quan hoạch định chính sách quốc gia trong việc thúc đẩy đô thị hóa bền vững, ứng dụng công nghệ để phát triển nông nghiệp tiên tiến, đồng thời tập trung vào năng lượng tái tạo, thuế carbon, công nghệ xanh và cải thiện không gian sống. Hài hòa các hoạt động hỗ trợ và trừng phạt đối với các hành vi ảnh hưởng đến môi trường sống. 

Thứ hai, hàm ý nhấn mạnh tầm quan trọng của mối liên kết giữa môi trường và con người trong việc giảm phát thải CO2, một lần nữa gắn kết mối liên kết trong các quyết định của các nhà hoạch định chính sách nhằm tăng cường hỗ trợ cho các hoạt động môi trường, khuyến khích sự tập trung tinh thần vì một tương lai bền vững không chỉ trong các hoạt động sản xuất kinh doanh mà bất kỳ lĩnh vực nào cũng cần có định hướng hướng tới một chiến lược tổng thể bền vững. 

Thứ ba, tham nhũng làm gia tăng bất bình đẳng thu nhập và tác động tiêu cực đến hạnh phúc quốc gia. Điểm tham nhũng càng cao thì quyền tự do và bình đẳng càng thấp. Đồng thời, tham nhũng làm giảm lòng tin của người dân vào chính quyền, gây ra cảm giác bất công và bất bình đẳng, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến sự hài lòng và chất lượng cuộc sống. Vì vậy, hàm ý các nhà lãnh đạo trong việc thực thi pháp luật và quản lý bộ máy nhà nước một cách nghiêm minh và công bằng, khái quát từ cá nhân nhỏ đến tổ chức lớn. 

Thứ tư, tuổi thọ cao không chỉ phản ánh sự cải thiện về điều kiện sức khỏe mà còn phản ánh mức sống chung của người dân, do đó, việc hỗ trợ tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe cũng như các chính sách phúc lợi khác cho từng nhóm tuổi là cần thiết không chỉ về mặt nguồn nhân lực mà còn trong các hoạt động đầu tư cho tương lai, thúc đẩy tăng trưởng bền vững. 

Thứ năm, giáo dục là yếu tố then chốt phản ánh trình độ nhận thức của công dân vậy nên sự lồng ghép yếu tố hạnh phúc trong trường học là một hành động cần thiết để mở rộng thế giới quan của mỗi người từ đó thúc đẩy hạnh phúc quốc gia.

Thứ sáu, tiêu dùng vật liệu trong nước có tác động tích cực đến hạnh phúc, đây sẽ là một thách thức đối với các nhà phát triển kinh tế, chủ doanh nghiệp và nhà đầu tư trong việc cân bằng lợi ích kinh tế và môi trường, bởi nếu vấn đề này không được kiểm soát, nó sẽ làm trầm trọng thêm tình trạng ô nhiễm môi trường vốn đã đáng lo ngại. 

Các khuyến nghị từ nghiên cứu hy vọng sẽ là động lực để các chủ doanh nghiệp thúc đẩy hơn nữa việc phát triển sản phẩm và đào tạo nguồn nhân lực về các vấn đề CSR và phấn đấu tăng trưởng điểm ESG. Các nhà đầu tư cần cân nhắc kỹ lưỡng và toàn diện hơn trong các quyết định đầu tư của mình, đồng thời có sự ủng hộ đối với các dự án vì lợi ích môi trường và chú trọng vào dòng tiền xanh cũng như lợi nhuận quay vòng có đóng góp cho môi trường. Trong mối quan hệ giữa sản xuất – kinh doanh – tiêu dùng, nhóm nghiên cứu quan tâm đến người tiêu dùng trong việc hướng tới các sản phẩm hữu cơ, thân thiện với môi trường và các sản phẩm không chỉ mang lại lợi ích cho người tiêu dùng mà còn đóng góp vào sự tăng trưởng xanh của nền kinh tế.

Tác giả: ThS. Trần Hà Quyên và cộng sự – Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh 

Đây là bài viết nằm trong Chuỗi bài lan tỏa nghiên cứu và kiến thức ứng dụng từ UEH với thông điệp “Research Contribution For All – Nghiên Cứu Vì Cộng Đồng”. UEH trân trọng kính mời Quý độc giả cùng đón xem bản tin UEH Research Insights tiếp theo.

Tin, ảnh: Tác giả, Ban Truyền thông và Phát triển đối tác UEH

Giọng đọc: Thanh Kiều

Chân Trang (1)

Chu kỳ giảm giá của đồng USD?

TS. Đinh Thị Thu Hồng và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Việt Nam cần kịch bản cho thương mại tương lai

ThS. Tô Công Nguyên Bảo

26 Tháng Sáu, 2021

Hệ thống tiền tệ tiếp theo như thế nào?

TS. Lê Đạt Chí và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Chuyển đổi số trong khu vực công tại Việt Nam

Khoa Quản lý nhà nước

26 Tháng Sáu, 2021

Cần đưa giao dịch công nghệ lên sàn chứng khoán

Bộ Khoa học và Công nghệ

5 Tháng Sáu, 2021

Thiết kế đô thị: tầm nhìn vững chắc cho đô thị bền vững

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

Phục hồi du lịch và nỗ lực thoát khỏi vòng xoáy ảnh hưởng bởi Covid-19

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

2021 sẽ là năm khởi đầu của chu kỳ tăng trưởng mới

PGS.TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

5 Tháng Sáu, 2021

Quỹ vaccine sẽ khả thi khi có người dân đóng góp

Phạm Khánh Nam, Việt Dũng

5 Tháng Sáu, 2021

Kích thích kinh tế, gia tăng vận tốc dòng tiền

Quách Doanh Nghiệp

5 Tháng Sáu, 2021

Đi tìm chiến lược hậu Covid-19 cho doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam

PGS TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo, ThS Lê Văn

5 Tháng Sáu, 2021

Insurtech – Cơ hội và thách thức cho Startup Việt

Ths. Lê Thị Hồng Hoa

5 Tháng Sáu, 2021