[Podcast] Tái Cấu Trúc Bền Vững Vùng Kinh Tế Đông Nam Bộ (Kỳ 3): Quan Điểm Tái Cấu Trúc Vùng

5 Tháng Năm, 2023

Vùng Đông Nam Bộ đang có những đóng góp quan trọng chung vào tăng trưởng và phát triển của cả nước, nhưng đang đứng trước thách thức phục hồi kinh tế và tiến tới phát triển bền vững trong dài hạn. Trước vấn đề này, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh (UEH) đã và đang nỗ lực đóng góp cho sự phát triển của Vùng thông qua hoạt động nghiên cứu và tư vấn. Tại bài viết này, tác giả đã phân tích những điểm nghẽn trong quá trình phát triển Vùng, từ đó, đề xuất các chính sách cơ cấu hay thực hiện tái cấu trúc trung và dài hạn nhằm đảm bảo phát triển bền vững Vùng. 

Từ những phân tích điểm nghẽn và các hạn chế từ điểm nghẽn như đã nêu ra ở kỳ 1 và kỳ 2, tác giả đã đề xuất quan điểm tái cấu trúc Vùng Đông Nam Bộ.

Nâng cao chất lượng cơ cấu kinh tế Vùng Đông Nam Bộ

Quan điểm tái cấu trúc kinh tế Vùng ĐNB: Hướng đến động lực phát triển các ngành kinh tế hướng đến hiệu quả và đổi mới sáng tạo tập trung và thâm dụng công nghệ, đổi mới mô hình tăng trưởng nâng cao tính hiệu quả quản trị Vùng nhằm phá vỡ điểm nghẽn thâm dụng lao động ít kỹ năng và thâm dụng vốn và tài nguyên. Giai đoạn từ 2022 trở về trước, Vùng phát triển chủ yếu dựa trên thâm dụng các yếu tố đầu vào như: lao động ít kỹ năng, thâm dụng vốn, thâm dụng năng lượng, và thâm dụng tài nguyên đất, hay nói khác đi là tăng trưởng hiện trạng chủ yếu từ các yếu tố đầu vào mặc dù tạo ra thu nhập bình quân đầu người cao hơn 40% so với mức trung bình cả nước và hiện đang ở mức xấp xỉ hơn 6000 USD/người tính vào thời điểm 2022, phấn đấu đạt 14.500USD năm 2023 và tầm nhìn Vùng phát triển xứng tầm khu vực Đông Nam Á về thu hút tài năng, trung tâm tài chính, logistic quốc tế. 

Vùng kinh tế Đông Nam Bộ cần kiến tạo hệ sinh thái hiệu quả cho việc chuyển đổi và phát triển các ngành hiện hữu theo tiếp cận hiệu quả/đổi mới sáng tạo gắn với yếu tố ICT. Chuyển đổi ngành chế biến tinh lương thực thực phẩm (LTTP) từ tiếp cận truyền thống sang hệ sinh thái chế biến LTTP gắn với nông trại thông minh (smart farms): giảm chi phí đầu vào đang khan hiếm, nâng cao liên kết vùng kinh tế trọng điểm về vùng nguyên liệu, góp phần nâng cao chất lượng-giá trị-năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu. Chuyển đổi các thế hệ SMEs có nhiều hạn chế ở tất cả các ngành công nghiệp/dịch vụ của Vùng sang SMEs đổi mới sáng tạo, và gắn với khởi nghiệp theo mô hình kinh doanh mới có tích hợp yếu tố ICT.

Từng bước tái cấu trúc các khu công nghiệp (KCN) thuộc Vùng, đặc biệt là các KCN có vị trí gần trung tâm các thành phố thuộc Vùng theo hướng khu công nghiệp sinh thái theo tiếp cận UNIDO (2014) và Nghị định số 35/2022/NĐ-CP. Mô hình thích hợp dài hạn và bền vững cho giai đoạn hậu công nghiệp của các khu chế xuất-khu công nghiệp của Vùng sẽ định hướng dài hạn theo mô hình khu công nghiệp sinh thái với các biến thể kết hợp liên quan đến đô thị/thương mại/dịch vụ. UNIDO đã đề xuất TP.HCM là một siêu đô thị thuộc Vùng thực hiện thí điểm KCN sinh thái cho KCN Hiệp Phước sau đó mở rộng ra các KCN khác với biến thể sinh thái-đô thị-logistics và tình huống thực hiện thí điểm này nên nhân rộng ra các tỉnh khác trong Vùng như Bình Dương, Đồng Nai cho các KCN có tiềm năng chuyển đổi.

Các KCN hiện hữu thuộc Vùng phải được hỗ trợ từ chính quyền địa phương và Hội đồng Vùng bổ sung các hệ sinh thái từng buớc chuyển đổi sang khu công nghiệp xanh/sinh thái nhằm từng bước hình thành hệ sinh thái cộng sinh công nghiệp với các nội hàm bổ sung.

Đồng thời, mở rộng không gian phát triển và tăng cường kết nối Vùng, liên kết vùng bằng cách hoàn thiện hệ thống giao thông kết nối Vùng, hình thành khu siêu kinh tế.

Xây dựng các Trung tâm e-Logistics kết nối Vùng nhằm thúc đẩy lưu thông hàng hóa nội Vùng và thúc đẩy hiệu quả dòng hàng hoá xuất khẩu từ Vùng theo hướng giảm chi phí chung nhằm phát huy lợi thế về độ mở thương mại lớn của Vùng gồm: Trung tâm Logistics theo tiếp cận chuyển đổi số; Đầu tư phát triển hệ thống logistics chuyên ngành lương thực thực phẩm ở cấp độ Vùng.

Hội đồng Vùng với cơ chế vượt trội về đầu tư và quản trị Vùng

Hội đồng Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam (bao gồm Đông Nam Bộ) tuy đã hình thành ở mức độ thứ 3 (thể chế vùng hiệu quả phải đảm bảo cơ chế vượt trội được điều hành có tính pháp lý cao, công cụ điều hành là Quy hoạch Vùng và Nguồn lực đầu tư công mà ngân sách quốc gia giao cho Hội đồng Vùng giải quyết các vấn đề Vùng như: quản trị hệ sinh thái đổi mới sáng tạo toàn Vùng, quản trị tài nguyên Vùng, quản trị sản xuất và tiêu thụ Vùng, quản trị hệ cơ sở dữ liệu Vùng, quản trị liên kết Vùng qua thiết kế và triển khai hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông Vùng) nhưng chưa đủ mạnh vì chưa lên kết được nguồn lực do vẫn hoạt động theo cát cứ địa giới hành chính, chưa có một sức mạnh chỉ đạo chung thực hiện các lợi ích của Vùng cho dù là có Chủ tịch Hội đồng vùng theo cơ chế luân phiên.

Thực sự Hội đồng Vùng chưa hiệu quả trong ít nhất 10 năm tồn tại vừa qua nhưng các thiết chế quyết định các vấn đề Vùng chưa được hiện rõ nét, đặc biệt cơ chế hoạt động Hội đồng Vùng càng trở nên lúng túng và bị động, thậm chí không vận hành trong bối cảnh giãn cách xã hội làm đứt gãy chuỗi cung ứng.

Nghị quyết 54/QH về cơ chế đặc thù cho TP.HCM là địa phương dẫn đầu Vùng về nhiều mặt mặc dù có nhiều tự chủ hơn trong huy động nguồn lực cho các dự án nhóm A được Hội đồng nhân quyết nhưng hạn chế do hai năm đại dịch và khi triển khai còn nhiều điều bất cập về chính sách nên tính hiệu quả chưa cao và chưa giải quyết cơ bản các điểm nghẽn của TP.HCM. Do vậy, Hội đồng Vùng không thể theo tiếp cận cơ chế đặc thù mà Hội đồng Vùng phải có một cơ chế vượt trội để thu hút và sử dụng các nguồn lực đầu tư công giải quyết vấn đề không chỉ cho Pp.HCM mà các vấn đề liên quan đến cả Vùng.

Theo đó, Hội đồng Vùng cần được đưa ra các quyết nghị liên quan đến các vấn đề thuộc Vùng cho dù là các dự án quốc gia hay dự án địa phương có tác động đến Vùng ở các lĩnh vực nguồn nước và quản trị tài sản dùng chung như lưu vực sông, các vấn đề môi trường Vùng, giao thông nối kết Vùng, an toàn thực phẩm Vùng, và hợp tác phân công lao động theo chuỗi giá trị công nghiệp Vùng.

Các kiến nghị theo cấp trị chính sách quản trị Vùng

Ở cấp độ Nhà nước và Bộ ngành, kiến nghị: Nghiên cứu áp dụng mô hình quản lý ATTP hợp nhất ở cấp quốc gia. Chính phủ nghiên cứu pháp lý hóa cơ chế kiểm soát ATTP ở cấp độ vùng và xây dựng thể chế quản lý ATTP Nhà nước cấp vùng. Thống nhất tiêu chuẩn sản xuất nông sản thực phẩm và bắt buộc áp dụng theo lộ trình. Quản lý chặt chẽ sản xuất, thương mại và sử dụng hóa chất nông nghiệp và thực phẩm.

Chỉ tiêu Các giai đoạn phát triển Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
Giai đoạn 1
Động lực từ tài nguyên
Chuyển tiếp từ giai đoạn 1 sang giai đoạn 2 Giai đoạn 2
Động lực từ hiệu quả sản xuất
Chuyển tiếp từ giai đoạn 2 sang giai đoạn 3 Giai đoạn 3
Động lực từ đổi mới, sáng tạo
GRDP/ người Vùng (USD) Dưới 2.000 2.000-4.999 5.000-8.999 9.000-17.000 Trên 17.000
Phân kỳ GRDP/   người Vùng 1990-2000 2000-2020 2020-2025 2025-2030 2030-2045
Tăng trưởng dựa vào vốn, lao động, tài nguyên 60% 50% 40% 30% 20%
Tăng trưởng dựa vào hiệu quả 40% 45% 50% 55% 55%
Tăng trưởng dựa vào sáng tạo 0% 5% 10% 15% 25%

Thực thi tái cấu trúc Vùng phải được kiến tạo thông qua hội đồng Vùng có hiệu lực pháp lý và phải có một cơ chế vượt trội huy động các nguồn lực triển khai các vấn đề vùng như liên kết sản xuất và tiêu thụ theo hướng ATTP, liên kết các địa phương trong Vùng giải quyết vấn đề môi trường vùng và giao thông kết nối vùng, hướng đến các chỉ tiêu theo từng giai đoạn

Về quản trị cấp độ Vùng về chuỗi cung ứng: Thống nhất pháp lý hóa và áp dụng nhất quán hệ thống tiêu chuẩn hàng hóa cho nông sản thực phẩm và có lộ trình phù hợp cho phía sản xuất; Xây dựng hệ thống thông tin sản xuất và thương mại nông thủy sản cấp độ Vùng; Xây dựng quy hoạch sản xuất và tiêu thụ hàng hóa nông sản thực phẩm an toàn cấp độ Vùng. Bên cạnh đó, cần quản trị hiệu quả tài nguyên nước Vùng.

Xem toàn bộ Bài nghiên cứu Vùng Kinh Tế Đông Nam Bộ: Hiện trạng phát triển và các gợi ý tái cấu trúc bền vững TẠI ĐÂY. Tác giả: GS.TS. Nguyễn Trọng Hoài – Tổng biên tập tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh Doanh Châu Á (Journal of Asian Business and Economic Studies – JABES), Đại học Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh.

Đây là bài viết nằm trong Chuỗi bài lan tỏa nghiên cứu và kiến thức ứng dụng từ UEH với thông điệp “Research Contribution For All – Nghiên Cứu Vì Cộng Đồng”, UEH trân trọng kính mời Quý độc giả cùng đón xem Bản tin kiến thức KINH TẾ SỐ #72 tiếp theo.

Tin, ảnh: Tác giả, Phòng Marketing – Truyền thông UEH

Giọng đọc: Ngọc Quí

Chu kỳ giảm giá của đồng USD?

TS. Đinh Thị Thu Hồng và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Việt Nam cần kịch bản cho thương mại tương lai

ThS. Tô Công Nguyên Bảo

26 Tháng Sáu, 2021

Hệ thống tiền tệ tiếp theo như thế nào?

TS. Lê Đạt Chí và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Chuyển đổi số trong khu vực công tại Việt Nam

Khoa Quản lý nhà nước

26 Tháng Sáu, 2021

Cần đưa giao dịch công nghệ lên sàn chứng khoán

Bộ Khoa học và Công nghệ

5 Tháng Sáu, 2021

Thiết kế đô thị: tầm nhìn vững chắc cho đô thị bền vững

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

Phục hồi du lịch và nỗ lực thoát khỏi vòng xoáy ảnh hưởng bởi Covid-19

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

2021 sẽ là năm khởi đầu của chu kỳ tăng trưởng mới

PGS.TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

5 Tháng Sáu, 2021

Quỹ vaccine sẽ khả thi khi có người dân đóng góp

Phạm Khánh Nam, Việt Dũng

5 Tháng Sáu, 2021

Kích thích kinh tế, gia tăng vận tốc dòng tiền

Quách Doanh Nghiệp

5 Tháng Sáu, 2021

Đi tìm chiến lược hậu Covid-19 cho doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam

PGS TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo, ThS Lê Văn

5 Tháng Sáu, 2021

Insurtech – Cơ hội và thách thức cho Startup Việt

Ths. Lê Thị Hồng Hoa

5 Tháng Sáu, 2021