[Podcast] Phát Triển Khoa Học Kỹ Thuật Và Đổi Mới Công Nghệ Ở Vùng Đông Nam Bộ (Phần 2): Giải Pháp Tăng Cường Đổi Mới Công Nghệ Và Ứng Dụng Công Nghệ Cao

19 Tháng Chín, 2023

Đông Nam Bộ (ĐNB) là vùng có hoạt động kinh tế lớn nhất nước. Tuy nhiên, trong những năm thời kỳ dịch bệnh Covid gần đây, tốc độ tăng trưởng của vùng Đông Nam Bộ có xu hướng giảm và thấp hơn cả nước. Thông qua phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động đổi mới công nghệ và ứng dụng công nghệ cao của vùng Đông Nam Bộ, nhóm tác giả đã đưa ra những thành tựu lớn và các nguyên nhân tác động hạn chế đến hoạt động đổi mới khoa học công nghệ của vùng. Từ đây, đề xuất giải pháp đổi mới công nghệ và ứng dụng công nghệ cao nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng của vùng ĐNB.

Những hạn chế trong phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ ở vùng Đông Nam Bộ

Thứ nhất, các tỉnh miền Đông Nam Bộ chưa có chiến lược, quy hoạch hoặc kế hoạch chung trong hợp tác phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo. Mỗi tỉnh làm KHCN độc lập với mục tiêu và kế hoạch riêng dẫn tới phân tán nguồn lực vốn đã rất mỏng: nguồn lực tài chính, nhân lực, chuyên gia cao cấp, cơ sở vật chất kỹ thuật. Một số trường hợp có sự cạnh tranh chưa hợp lý giữa các tỉnh trong vùng: cạnh tranh trong lôi kéo các nhà đầu tư FDI công nghệ cao, trong thu hút lao động chất lượng cao, nhiều đề tài nghiên cứu khoa học mang tính trùng lắp… Trình độ phát triển KHCN giữa các tỉnh có sự chênh lệch lớn, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển chung của toàn vùng.

Thứ hai, trên địa bàn vùng ĐNB có khoảng 80 trường Đại học, 70 trường cao đẳng, nhưng các cơ sở này chưa gắn hoạt động KHCN để giải quyết có hiệu quả các vấn đề KT-XH của vùng. Kết quả nghiên cứu khoa học của các trung tâm đổi mới sáng tạo tại các trường chưa thực sự đi vào cuộc sống, khả năng ứng dụng, thương mại hóa các sản phẩm công nghệ còn nhiều hạn chế. Và mỗi trường, viện trên địa bàn ĐNB cũng chưa có kế hoạch chủ động tham gia vào các dự án, đề án, kế hoạch phát triển KHCN của vùng. Các trường đại học kỹ thuật trên địa bàn chưa phải là hạt nhân phát triển KHCN mới, nhiều công trình nghiên cứu mang tính lý thuyết, tính ứng dụng hạn chế.

Thứ ba, các tỉnh vùng ĐNB từ lâu đã có chủ trương thu hút các dự án FDI công nghệ cao, nhưng các biện pháp thu hút hiệu quả còn nhiều hạn chế cho nên sản phẩm do các DN FDI sản xuất vẫn chủ yếu là những sản phẩm công nghệ mang tính gia công lắp ráp, sử dụng lao động có tay nghề thấp. Rất ít DN FDI đang hoạt động sản xuất tại vùng ĐNB tổ chức công tác nghiên cứu công nghệ mới, sáng tạo ra các sản phẩm mang xu hướng công nghệ mới. Tóm lại các tập đoàn FDI đang hoạt động tại vùng ĐNB chưa thực sự tham gia để góp phần biến khu vực này trở thành trung tâm sản xuất công nghệ cao của khu vực và thế giới.

Thứ tư, các trung tâm, phòng nghiên cứu ở vùng ĐNB thiếu kinh phí hoạt động, thiếu sự liên kết với nhau. Sự hợp tác với các nước trong khu vực và thế giới trong nghiên cứu và phát triển mới ở những bước sơ khởi, chưa tạo ra các sản phẩm mang tính đột phá về công nghệ gây tiếng vang trong và ngoài nước. Trong khi đó, nhiều sản phẩm công nghiệp hỗ trợ sản xuất trong nước chưa đáp ứng, phải nhập khẩu, hiệu quả sản xuất sản phẩm của vùng ĐNB chưa cao.

Thứ năm, về cơ bản các DN hoạt động trong vùng ĐNB còn sử dụng công nghệ trung bình, có xuất xứ từ Trung Quốc, trong khi đó rất ít DN trích lập quỹ “Quỹ phát triển khoa học và công nghệ” theo tinh thần hướng dẫn của thông tư liên tịch giữa Bộ Khoa học và công nghệ và Bộ Tài chính (thông tư hướng dẫn số 12/2016/ TTLT-BKHCN-BTC ngày 28/6/2016). Gần 7 năm trôi qua, số lượng DN trích Quỹ vỏn vẹn dưới 0,1% tổng số DN đang hoạt động. Nhiều tập đoàn, DN đã thành lập Quỹ nhưng việc sử dụng rất hạn chế, trong số các DN lập quỹ ít ỏi này có gần 80% DN trích Quỹ nhưng không sử dụng. Đây là nguyên nhân trình độ kỹ thuật và công nghệ của các DN hạn chế, năng suất lao động chưa cao. Số DN sản xuất, chế tạo có phòng nghiên cứu KHCN còn rất ít kể cả khu vực FDI. Doanh nghiệp ở vùng ĐNB chưa mạnh mẽ tham gia thị trường KHCN với tư cách là bên cầu, lẫn bên cung trên thị trường. Nhiều DN của các tỉnh ĐNB, trong đó có TP.HCM chưa xem phát triển KHCN là yếu tố quan trọng để DN duy trì sức cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế gia tăng.

Thứ sáu, triển khai ứng dụng công nghệ 4.0 trong sản xuất và đời sống, quản lý hoạt động KT-XH ở vùng ĐNB nhìn chung còn mang tính phong trào, thành tựu chưa tương xứng với mục tiêu và các nguồn lực đã bỏ ra thực hiện chuyển đổi số góp phần đẩy nhanh ứng dụng công nghệ 4.0, biểu hiện:

  • Giữa các tỉnh vùng ĐNB việc chia sẻ nguồn tài nguyên thông tin, dữ liệu giữa các tỉnh, trong nội bộ từng tỉnh còn hạn chế.
  • Cơ sở hạ tầng phục vụ cho chuyển đổi số ở vùng ĐNB, kể cả TP.HCM chưa đáp ứng yêu cầu, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa (thiết bị máy móc, đường truyền cũ, tốc độ thiếu ổn định, nguồn nhân lực còn hạn chế..). Bảng 2 dưới đây khái quát phần nào hoạt động chuyển đổi số cấp tỉnh ở vùng ĐNB năm 2021.

Bảng 2 : Tình hình về triển khai chuyển đổi số ở các tỉnh Đông Nam Bộ năm 2021

STT Các tỉnh ĐNB Xếp hạng chung về chuyển đổi số* Xếp hạng chính quyền số Xếp hạng kinh tế số Xếp hạng XH số Nguồn nhân lực Cơ sở hạ tầng số
1 TP. Hồ Chí Minh 3 4 1 29 11 1
2 Đồng Nai 19 17 3 21 16 37
3 Bình Dương 22 16 36 33 7 5
4 Bình Phước 9 3 28 11 13 8
5 Bà Rịa- Vũng Tàu 29 44 14 28 56 6
6 Tây Ninh 44 50 58 58 54 29

Nguồn: Bộ Thông tin & truyền thông 2021

*Xếp hạng chung về chuyển đổi số căn cứ vào 9 chỉ số chính phản ánh tình hình chuyển đổi số với 98 chỉ số thành phần.

  • Các DN sản xuất và dịch vụ hoạt động ở vùng ĐNB ứng dụng công nghệ 4.0 còn đơn giản, ở cấp độ thấp, nhiều đơn vị còn sử dụng lao động phổ thông để tổ chức sản xuất, kinh doanh. Hậu quả, năng xuất lao động chưa cao, hiệu quả kinh doanh hạn chế.

Cho đến thời điểm này (tháng 3/2023) sự phát triển KHCN của ĐNB thực chất chưa mạnh, chưa thực sự trở thành trung tâm phát triển KHCN có tầm ảnh hưởng đến sự phát triển KT-XH của khu vực phía Nam và cả nước, và TP.HCM chưa có vị trí KHCN ở Đông Nam Á lẫn thế giới. 

Những nguyên nhân của tồn tại yếu kém

*Về phía Nhà nước & Thành phố: 

  • Ngày 11/5/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 569/QĐ-TTg ban hành Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KHCN&ĐMST) đến năm 2030. Nhưng vùng ĐNB và từng tỉnh, thành phố của vùng chưa xây dựng triển khai chiến lược cụ thể về KHCN và đổi mới sáng tạo.
  • Nhiều cơ chế chính sách ưu đãi của Nhà nước khuyến khích DN phát triển KHCN chưa đi vào cuộc sống, ví dụ Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BKHCN-BTC ngày 28/6/2016 hướng dẫn về nội dung chi và quản lý “Quỹ phát triển Khoa học và công nghệ” của DN. Đến bây giờ gần 7 năm trôi qua số DN áp dụng cơ chế ưu đãi này khoảng 1% số DN đang hoạt động, vì khó áp dụng, thủ tục giải trình phức tạp.
  • Cơ chế phát triển kinh tế và cơ chế phát triển KHCN của các tỉnh vùng ĐNB chưa thực sự gắn chặt với nhau: sự phát triển KT-XH chưa đặt hàng được cho KHCN, vì thế KHCN nghiên cứu xong cũng ít có điều kiện để ứng dụng hoặc bàn giao cho các Sở, Ban, Ngành triển khai ứng dụng, kết quả nghiên cứu hầu hết mang tính hình thức.
  • Nguyên nhân chính do KHCN chưa được xem là nhân tố quan trọng quyết định tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế của từng tỉnh ĐNB. Các chủ trương chính sách của các tỉnh đều có nói về KHCN, nhưng biện pháp thực thi có nhiều hạn chế, chưa có quyết sách mang tính đột phá về phát triển KHCN chung cho cả vùng và từng tỉnh.
  • Toàn bộ vùng ĐNB chưa có đầu mối chung và từng Sở KH-CN thành phố, tỉnh trong vùng chưa thực hiện tốt chức năng tham mưu cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc lựa chọn hướng nghiên cứu, chọn sản phẩm có lợi thế và tiềm năng phát triển và đề xuất giải pháp tốt nhất là về cơ chế chính sách để phát triển các sản phẩm KHCN đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
  • Các chính sách lương và các ưu đãi khuyến khích sinh viên, người lao động học các ngành kỹ thuật, công nghệ cao chưa đi vào cuộc sống. Trong khi đó nguồn nhân lực này đóng vai trò quan trọng nhất cho thực hiện cách mạng công nghệ 4.0 và phát triển ứng dụng KHCN trong các DN.
  • Các tỉnh vùng ĐNB, trong đó có TP.HCM chưa có chính sách khuyến khích các công ty công nghệ cao đến thành phố thành lập các trung tâm nghiên cứu và phát triển.
  • Chưa quản lý triệt để và có hiệu quả vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đây là rào cản hạn chế phát triển KHCN.

*Về phía doanh nghiệp: 

  • Các DN ở vùng ĐNB chưa có chiến lược với các biện pháp và bước đi cụ thể đầu tư cho đổi mới công nghệ và ứng dụng công nghệ 4.0. Theo quy định của Chính phủ, hàng năm, DN nhà nước ở TP.HCM phải trích mức độ đầu tư cho đổi mới công nghệ ở các DN trong KCX, KCN chỉ khoảng 0,3% trên doanh thu/năm, chủ yếu là mua sắm công nghệ phần cứng (máy móc,trang thiết bị); trong khi ở Ấn Độ là 5% và Hàn Quốc là 10%.
  • Ứng dụng công nghiệp số trong sản xuất, thương mại, dịch vụ, nối kết thị trường còn hạn chế. Thực tế số DN của thành phố, đặc biệt DNNVV hiểu biết về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 còn hạn chế.
  • Vốn thiếu, khả năng tiếp cận đến các nguồn vốn khó khăn ảnh hướng đến ứng dụng thành tựu cuộc cách mạng 4.0 trong sản xuất và kinh doanh dịch vụ.
  • Trong báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ gởi Chính phủ năm 2016 cũng từng đặt câu hỏi: “Trong bối cảnh các DN Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt trên thị trường trong và ngoài nước; tại sao giới doanh nhân lại chưa thực sự quan tâm tới việc đổi mới công nghệ và ít đặt hàng với các nhà khoa học trong nước để tìm ra những giải pháp tiết kiệm nhất cho sản xuất, nghiên cứu sản phẩm mới và thay thế các máy móc ngoại nhập?”.

Gợi ý những giải pháp tăng cường đổi mới công nghệ và ứng dụng công nghệ cao nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh các cụm ngành vùng ĐNB

Từ cấp quản lý khoa học và công nghệ ở Trung ương đến địa phương cấp tỉnh/thành phố vùng ĐNB tập trung rà soát, tháo gỡ các khó khăn, điểm nghẽn về thể chế, cơ chế, chính sách liên quan đến phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo và phát triển đồng bộ, hiệu quả, hiện đại và hội nhập theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các Nghị quyết của Bộ Chính trị. Các chiến lược, chương trình phát triển KHCN các tỉnh/thành phố khu vực ĐNB cần xây dựng và lồng ghép nhiệm vụ, kế hoạch/đề án phát triển thị trường KHCN vào kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm và hằng năm. Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh/thành phố của vùng ĐNB phải có chương trình giám sát thực hiện kế hoạch KHCN và đổi mới sáng tạo ở địa phương mình.

Mỗi tỉnh/thành phố vùng ĐNB tổ chức triển khai và thực hiện hiệu quả mục tiêu tổng quát và 9 mục tiêu cụ thể của Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KHCN&ĐMST) đến năm 2030 được Thủ tướng Chính Phủ thông qua ngày 22/05/2022. Các tỉnh vùng ĐNB nên có chiến lược (Quy hoạch) chung về phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo; Có chương trình hành động chung của các tỉnh ĐNB về phát triển thị trường công nghệ, cụ thể:

  • Xây dựng cơ chế chung thúc đẩy phát triển nguồn cung và cầu của thị trường KHCN, nâng cao năng lực hấp thụ, làm chủ và đổi mới công nghệ của DN đang hoạt động trong vùng ĐNB. Sở KH-CN từng tỉnh gợi ý để chính quyền địa phương cấp tỉnh Ban hành các cơ chế hỗ trợ giúp tăng cường hợp tác giữa DN, viện nghiên cứu, trường đại học và kết nối cung cầu giữa bên mua và bên bán các sản phẩm KHCN đã được thương mại hóa.
  • Đẩy mạnh việc phát triển mạng lưới tổ chức trung gian trên cơ sở kết nối các sàn giao dịch công nghệ, các tổ chức dịch vụ KHCN tại các viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp với các trung tâm ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KHCN.
  • Đầu tư phát triển các sàn giao dịch công nghệ vùng ĐNB, kết nối liên thông với hệ thống các trung tâm ứng dụng và chuyển giao công nghệ khu vực châu Á và thế giới.
  • Các tỉnh/thành phố vùng ĐNB hợp tác tổ chức các sự kiện xúc tiến thị trường KHCN quy mô vùng, quốc gia và quốc tế; quảng bá thị trường KHCN và đổi mới sáng tạo; lồng ghép, phối hợp với các sự kiện xúc tiến thương mại và đầu tư với xúc tiến thị trường KHCN.
  • Các tỉnh vùng ĐNB phối hợp để từng bước liên thông, tích hợp với các nền tảng kỹ thuật về thị trường KHCN trong nước và quốc tế.
  • Hợp tác trong công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực khoa học, công nghệ. Đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của thị trường KHCN. Phát triển các doanh nghiệp tiên phong trong mua bán công nghệ, nhất là công nghệ cao, công nghệ nguồn. ứng dụng CN 4.0 trong sản xuất, kinh doanh.

Các tỉnh trong vùng ĐNB đẩy mạnh kết nối liên thông, tiến tới đồng bộ hóa thị trường KHCN với các thị trường hàng hóa, dịch vụ, lao động và tài chính. Đẩy mạnh hợp tác công tư, huy động vốn từ doanh nghiệp, người dân, và xã hội để phát triển thị trường KHCN.

Tập trung xây dựng và triển khai thí điểm ở vùng ĐNB chính sách tạo động lực thương mại hoá sản phẩm KHCN, đưa nhanh kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ được tạo ra từ nguồn ngân sách nhà nước, hợp tác công – tư và đầu tư tư nhân vào sản xuất, kinh doanh, trong đó chú trọng chính sách chấp nhận rủi do trong hoạt động KHCN; khuyến khích hợp tác công – tư và đầu tư tư nhân trong các dự án thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ.

Nhân rộng các mô hình đổi mới sáng tạo, ứng dụng KHCN, trong đó các công nghệ 4.0 vào trong sản xuất kinh doanh.

Xây dựng chính sách khuyến khích khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, phát triển cơ sở dữ liệu lớn, chia sẻ dữ liệu, thông tin để đẩy mạnh phát triển hệ sinh thái KHCN, khởi nghiệp một cách toàn diện và đồng bộ.

Nâng cấp các vườn ươm công nghệ trong vùng, nâng cao chất lượng hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, hỗ trợ tạo ra các “Kỳ Lân” về công nghệ. Tăng cường vai trò của các trường Đại học trong nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ.

Xem toàn bộ bài nghiên cứu Phát triển khoa học kỹ thuật và đổi mới công nghệ ở vùng Đông Nam Bộ: Thực trạng và giải pháp TẠI ĐÂY

Nhóm Tác giả: NGND. GS.TS. Võ Thanh Thu – Đại học Kinh tế TP.HCM, ThS. Phạm Quang Văn – Trường Đại học Công nghệ TP.HCM.

Đây là bài viết nằm trong Chuỗi bài lan tỏa nghiên cứu và kiến thức ứng dụng từ UEH với thông điệp “Research Contribution For All – Nghiên Cứu Vì Cộng Đồng”, UEH trân trọng kính mời Quý độc giả cùng đón xem Bản tin kiến thức KINH TẾ SỐ #85 tiếp theo.

Tin, ảnh: Tác giả, Phòng Marketing – Truyền thông UEH

Giọng đọc: Ngọc Quí

Chu kỳ giảm giá của đồng USD?

TS. Đinh Thị Thu Hồng và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Việt Nam cần kịch bản cho thương mại tương lai

ThS. Tô Công Nguyên Bảo

26 Tháng Sáu, 2021

Hệ thống tiền tệ tiếp theo như thế nào?

TS. Lê Đạt Chí và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Chuyển đổi số trong khu vực công tại Việt Nam

Khoa Quản lý nhà nước

26 Tháng Sáu, 2021

Cần đưa giao dịch công nghệ lên sàn chứng khoán

Bộ Khoa học và Công nghệ

5 Tháng Sáu, 2021

Thiết kế đô thị: tầm nhìn vững chắc cho đô thị bền vững

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

Phục hồi du lịch và nỗ lực thoát khỏi vòng xoáy ảnh hưởng bởi Covid-19

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

2021 sẽ là năm khởi đầu của chu kỳ tăng trưởng mới

PGS.TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

5 Tháng Sáu, 2021

Quỹ vaccine sẽ khả thi khi có người dân đóng góp

Phạm Khánh Nam, Việt Dũng

5 Tháng Sáu, 2021

Kích thích kinh tế, gia tăng vận tốc dòng tiền

Quách Doanh Nghiệp

5 Tháng Sáu, 2021

Đi tìm chiến lược hậu Covid-19 cho doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam

PGS TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo, ThS Lê Văn

5 Tháng Sáu, 2021

Insurtech – Cơ hội và thách thức cho Startup Việt

Ths. Lê Thị Hồng Hoa

5 Tháng Sáu, 2021