[Podcast] Nguồn Nhân Lực Chất Lượng Cao Cho Sự Phát Triển Bền Vững Vùng Đông Nam Bộ (Kỳ 1): Thực Trạng Nguồn Nhân Lực Vùng

19 Tháng Năm, 2023

Nhân lực được xem là một trong những nguồn lực quan trọng nhất của quốc gia, giữ vai trò quyết định đối với sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Để phát triển Vùng Đông Nam Bộ theo quy hoạch của Nghị quyết 24/NQ-TW, nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao gắn liền với lợi thế cạnh tranh của Vùng cần được tiến hành theo quy hoạch. Dựa trên số liệu thống kê và phân tích, các tác giả của Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh (UEH) đã làm rõ sự thiếu hụt về nhân lực, từ đó, đề xuất một số định hướng về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững cho Vùng Đông Nam Bộ.

Ở kỳ 1 bài viết, chúng ta hãy cùng tìm hiểu những ngành lợi thế và thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao của cả nước và Vùng Đông Nam Bộ hiện nay. 

Những cụm ngành Vùng Đông Nam Bộ có lợi thế

Cơ cấu kinh tế của các địa phương thuộc Vùng Đông Nam Bộ chủ yếu tập trung vào công nghiệp – dịch vụ. Hình 1 cho thấy công nghiệp là trụ cột ở các địa phương, trừ Thành phố Hồ Chí Minh, với tỷ lệ đóng góp vào GRDP từ thấp nhất là 43,19% (Bình Phước) đến cao nhất là 68,74% (Bà Rịa- Vũng Tàu). Riêng Thành Phố Hồ Chí Minh, dịch vụ vượt hẳn công nghiệp, đóng góp đến 64% GRDP, trong đó đứng đầu là nhóm thương mại, tiếp theo là tài chính, ngân hàng và bảo hiểm với tỷ lệ lần lượt là 16,4% và 10,1% GRDP.

Hình 1. Cơ cấu kinh tế tại các địa phương thuộc vùng Đông Nam Bộ. Nguồn: Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết số 53/NQ-TW của Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh năm 2022 của Tỉnh Bình Dương; Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội, quốc phòng  của Tỉnh Đồng Nai; Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2022 và Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2023 của tỉnh Tây Ninh; Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội quý IV năm 2022 của TP.HCM

Cơ cấu kinh tế định hướng công nghiệp-dịch vụ đã góp phần cải thiện thu nhập của người lao động. Xét về cơ cấu thu nhập, Bình Dương đứng đầu Vùng Đông Nam Bộ, tiếp theo là Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là hai địa phương có tỷ lệ đóng góp cao của công nghiệp (Bình Dương) và dịch vụ (Thành phố Hồ Chí Minh) vào GRDP của Vùng. Trong khi đó, nguồn thu nhập của Bình Phước và Tây Ninh có sự đóng góp khá cao của nông, lâm nghiệp, thủy sản mặc dù có xu hướng gia tăng khối lượng sản xuất sản phẩm công nghiệp (Hình 2). Số liệu thống kê cũng cho thấy Bình Phước có lợi thế trong sản xuất nông nghiệp và đang gia tăng năng suất lao động trong nông nghiệp, cụ thể: tỷ trọng ngành kinh tế nông nghiệp là 21,46%; thu nhập từ nông nghiệp là 30,1%.

Hình 2. Tỷ trọng thu nhập bình quân đầu người một tháng năm 2021 theo giá hiện hành phân theo nguồn thu và theo địa phương. Nguồn: Tổng Cục Thống Kê (2021)

Tình hình phát triển ngành công nghiệp của các địa phương là không giống nhau. Nhìn chung, chỉ số khối lượng sản phẩm công nghiệp có xu hướng giảm. Điều này thể hiện rõ qua số liệu thống kê trong 5 năm gần đây (có xem xét tình hình Covid) của Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương và Thành Phố Hồ Chí Minh. Trong khi đó, Bình Phước, Đồng Nai và Tây Ninh lại chứng kiến sự gia tăng khối lượng sản xuất sản phẩm công nghiệp (Hình 3). Trên cơ sở thực tế, các địa phương có kế hoạch tập trung vào các cụm ngành mà địa phương có lợi thế cạnh tranh, dựa trên việc khai thác công nghệ số. Đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại kinh tế theo hướng hiện đại, lấy kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn là trọng tâm và động lực phát triển.

Hình 3. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp theo các địa phương. Nguồn: Niên giám Thống kê (2021).

Vận tải là ngành dịch vụ phát triển song hành với sự tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, số liệu theo thời gian cho thấy sự gia tăng bền vững về khối lượng hàng hoá vận chuyển nội địa của tất cả các địa phương thuộc Vùng Đông Nam Bộ. Trong đó, Thành Phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, và Đồng Nai là các địa phương nằm trong top đầu về hoạt động này (Hình 4). Dựa vào lợi thế về vị trí tự nhiên, Bà Rịa – Vũng Tàu định hướng cho dịch vụ phát triển theo hướng gắn liền với lợi thế biển, đa dạng hoá sản phẩm du lịch, vận tải biển, logistics. Logistics và quản lý chuỗi cung ứng là một trong những công cụ hữu ích giúp doanh nghiệp liên kết các khâu khác nhau trong nội bộ hoặc giữa các doanh nghiệp, được áp dụng trong nhiều ngành kinh tế và trong bất cứ loại hình kinh doanh nào. Do đó, logistics là một thành phần quan trọng trong phát triển kinh tế của Bà Rịa-Vũng Tàu nói riêng và của Vùng nói chung.

 

Hình 4. Khối lượng hàng hoá vận chuyển theo địa phương (Ngàn tấn). Nguồn: Niên giám thống kê (2021)

Đối với ngành du lịch, số liệu ở Hình 5 cho thấy chỉ có Thành phố Hồ Chí Minh là đầu tàu phát triển du lịch với doanh thu từ hoạt động này xấp xỉ doanh thu của cả Vùng Đông Nam Bộ. Với vị trí địa lý là đầu mối giao thông của cả nước, bao gồm đường bộ, đường sắt, đường thuỷ và đường hàng không, Thành phố Hồ Chí Minh có vị trí thuận lợi trong việc giao lưu với các địa phương, đặc biệt là các địa phương trong Vùng nhờ có chung địa giới hành chính với các tỉnh: Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, và Bà Rịa-Vũng Tàu. Thực tế cho thấy nguồn khách du lịch đến vùng Đông Nam Bộ chủ yếu phụ thuộc vào lượng khách đến Thành phố Hồ Chí Minh. Điều này hàm ý việc phát triển du lịch Đông Nam Bộ cần có sự hợp tác, liên kết để khai thác tối đa những tiềm năng vốn có giữa các địa phương trong vùng theo hướng cụm ngành tạo sản phẩm chung, gắn kết liên tuyến để tạo sức hấp dẫn độc đáo của Vùng Đông Nam Bộ. Nguồn nhân lực chất lượng cao và cấp quản lý quy hoạch vùng đóng vai trò quan trọng trong việc hiện thực hóa mục tiêu này.

Hình 5. Doanh thu ngành du lịch lữ hành (Tỷ đồng). Nguồn: Niên giám Thống kê (2021)

Việc phân tích số liệu phát triển của các địa phương tại Vùng Đông Nam Bộ trong 5 năm qua cho thấy có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập trung vào dịch vụ và công nghiệp. Đối với dịch vụ, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, và Bà Rịa – Vũng Tàu là những địa phương dẫn dắt sự phát triển, điển hình ở các ngành vận tải, logistics và du lịch. Đồng Nai duy trì thế mạnh công nghiệp trong khi Bình Phước và Tây Ninh đang có lợi thế về nông nghiệp và có xu hướng chuyển dịch mạnh sang công nghiệp. Việc nhận dạng các cụm ngành lợi thế của các địa phương trong Vùng là cơ sở cho việc phát triển nguồn nhân lực, hiện thực hóa các mục tiêu của Nghị Quyết 24-NQ/TW đối với Vùng. 

Thực trạng nhân lực chất lượng cao của cả nước và vùng Đông Nam Bộ

*Về số lượng 

Số liệu thống kê đến năm 2022 của Tổng cục thống kê cho thấy dân số trung bình của cả nước ước tính 98,506 triệu người, bao gồm dân số thành thị 36,564 triệu người, chiếm 37,12%; dân số nông thôn 61,941 triệu người, chiếm 62,88%; dân số nam 49,097 triệu người, chiếm 49,84%; dân số nữ 49,409 triệu người, chiếm 50,16%.

Trong 5 năm qua, dân số Việt Nam có sự gia tăng xấp xỉ 4,47% từ 94,286 triệu người vào năm 2017 lên mức 98,506 triệu người vào năm 2021. Tỷ lệ gia tăng dân số hàng năm được duy trì trong mức 0,95% -1,17%, có xu hướng giảm vào năm 2021. Trong đó sự gia tăng dân số thiên về tỷ lệ nam so với nữ. 

Với tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ở mức 9,3 %o/năm 2021 và đang có xu hướng suy giảm cho thấy một thách thức đặt ra cho Việt Nam khi dân số bắt đầu thoát khỏi vùng dân số vàng chuyển sang vùng dân số già.  

Vùng Đông Nam Bộ cũng không phải là trường hợp ngoại lệ so với cả nước và các vùng khác. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên tăng nhẹ trong giai đoạn 2017-2019, sau đó giảm dần vào năm 2020 và 2021.

Đặc biệt, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của Vùng Đông Nam Bộ nằm trong nhóm thấp chỉ cao hơn Đồng Bằng Sông Cửu Long và Bắc Trung Bộ và Duyên Hải Miền Trung. Trong khi đó, tuổi thọ duy trì ổn định theo hướng tăng. Thách thức của vấn đề già hoá dân số đối với lực lượng lao động là không tránh khỏi khi tỷ lệ tăng dân số tự nhiên có xu hướng giảm trong những năm gần đây. 

Đồng thời, di cư nội địa có xu hướng gia tăng để phần nào bù đắp sự thiếu hụt lực lượng lao động tại các địa phương do tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm. Số liệu về tỷ suất nhập cư/xuất cư tại các tỉnh thuộc Vùng Đông Nam Bộ ở hình 6 cho thấy khu vực này có tỷ suất nhập cư cao, đặc biệt là các tỉnh có nhiều khu công nghiệp như Bình Dương, Đồng Nai, và Thành phố Hồ Chí Minh.

 

Hình 6. Tỷ suất nhập cư/xuất cư tại các tỉnh thuộc Vùng Đông Nam Bộ. Nguồn: Tác giả tổng hợp từ dữ liệu của Tổng Cục Thống Kê (2022)

Đối với lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên, số liệu thống kê trong 5 năm, tính từ 2017, cho thấy lực lượng lao động tại Vùng Đông Nam Bộ có sự tăng nhẹ cho đến trước 2019 và giảm hai năm sau đó, năm 2020 và 2021. Hai năm này là thời kỳ cả nước chịu tác động của đại dịch Covid-19. Như phân tích ở trên, khu vực này có sự biến động dân cư khá lớn mà nguyên nhân là do có tỷ suất nhập cư/xuất cư cao (Hình 7).

Hình 7. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên tại các tỉnh thuộc Vùng Đông Nam Bộ giai đoạn 2017-2021. Nguồn: Tác giả tổng hợp từ dữ liệu của Tổng Cục Thống Kê (2022)

Bên cạnh xu hướng sụt giảm về lực lượng lao động, sự chuyển dịch lao động giữa các ngành nghề cũng diễn ra mạnh mẽ. Lực lượng lao động trong các ngành công nghiệp và xây dựng có sự gia tăng trong năm 2021. Tương tự, lực lượng lao động của ngành dịch vụ cũng có sự tăng trưởng khá. Bên cạnh đó, cơ cấu lao động chuyển dịch chủ yếu sang các ngành: công nghiệp chế biến, chế tạo; xây dựng; vận tải kho bãi; dịch vụ lưu trú và ăn uống; dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. 

*Về chất lượng

Thứ nhất, đặc điểm nổi bật nhất của nước ta là số lượng lao động đã qua đào tạo còn rất hạn chế. Thống kê cho thấy lực lượng người lao động đã qua đào tạo có sự tăng nhẹ qua các năm. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của Vùng Đông Nam Bộ khá cao so với cả nước (đứng thứ hai), có xu hướng tăng theo thời gian nhưng có dấu hiệu giảm nhẹ vào năm 2021. 

Thứ hai, thị trường lao động trong nước đứng trước thách thức về sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao. Mặc dù cơ cấu trình độ chuyên môn có sự gia tăng đối với nhóm Đại học trở lên, từ 9,5% năm 2017 lên mức 11,67% năm 2021 nhưng tỷ lệ này vẫn còn khá khiêm tốn. Bên cạnh đó, nhóm cao đẳng có sự tăng nhẹ theo thời gian trong khi nhóm Trung cấp giảm. Đây cũng là thách thức cho việc thiếu “thợ”. Nhìn chung, nhu cầu lao động cho chuyên môn kỹ thuật bậc cao tăng theo thời gian trong khi nhu cầu lao động cho nghề giản đơn lại giảm. Như vậy, có sự dịch chuyển về lao động theo hướng giảm lao động phổ thông và gia tăng lao động kỹ năng. 

Thứ ba, năng suất lao động cũng là yếu tố cần được quan tâm vì đây là yếu tố mang tính quyết định trong việc đảm bảo tận dụng tốt nguồn lao động phục vụ cho quá trình tăng trưởng kinh tế. Trong gần 3 thập kỷ, năng suất lao động của Việt Nam tuy theo chiều hướng gia tăng nhưng rất chậm. Năng suất lao động Việt Nam chỉ hơn nhóm các quốc gia thu nhập thấp và chỉ nằm trong ngưỡng 50% nhóm nước thu nhập trung bình thấp. Bắt đầu từ năm 2017 đến 2022, năng suất lao động của Việt Nam gấp 2 lần năng suất lao động trung bình của nhóm nước thu nhập thấp, bằng hơn 50% nhóm nước thu nhập trung bình thấp và bằng 18.3% nhóm các nước thu nhập trung bình cao.

Đặc biệt, có sự khác biệt lớn về năng suất lao động giữa các nhóm ngành, trong đó nhóm ngành tài chính, ngân hàng cùng với nhóm ngành hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ có năng suất lao động cao nhất, ngành y tế có mức thu nhập cải thiện trong những năm vừa qua (Hình 8). Trong khi đó các ngành truyền thống như nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản có mức năng suất lao động thấp. Điều đáng lưu tâm, ngành công nghiệp chế biến – chế tạo luôn dẫn đầu về mức tăng trưởng song năng suất lao động không được tương xứng.

Hình 8. Năng suất lao động theo ngành nghề (Triệu đồng). Nguồn: Niên giám thống kê (2021)

Nhóm Tác giả: TS. Đinh Công Khải, TS. Nguyễn Văn Dư, TS. Nguyễn Lê Hoàng Thuỵ Tố Quyên, Khoa Quản lý nhà nước – Trường Kinh tế, Luật và Quản lý nhà nước UEH. 

Đây là bài viết nằm trong Chuỗi bài lan tỏa nghiên cứu và kiến thức ứng dụng từ UEH với thông điệp “Research Contribution For All – Nghiên Cứu Vì Cộng Đồng”, UEH trân trọng kính mời Quý độc giả cùng đón xem Bản tin kiến thức KINH TẾ SỐ #73 tiếp theo.

Tin, ảnh: Tác giả, Phòng Marketing – Truyền thông UEH

Giọng đọc: Ngọc Quí

Chu kỳ giảm giá của đồng USD?

TS. Đinh Thị Thu Hồng và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Việt Nam cần kịch bản cho thương mại tương lai

ThS. Tô Công Nguyên Bảo

26 Tháng Sáu, 2021

Hệ thống tiền tệ tiếp theo như thế nào?

TS. Lê Đạt Chí và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Chuyển đổi số trong khu vực công tại Việt Nam

Khoa Quản lý nhà nước

26 Tháng Sáu, 2021

Cần đưa giao dịch công nghệ lên sàn chứng khoán

Bộ Khoa học và Công nghệ

5 Tháng Sáu, 2021

Thiết kế đô thị: tầm nhìn vững chắc cho đô thị bền vững

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

Phục hồi du lịch và nỗ lực thoát khỏi vòng xoáy ảnh hưởng bởi Covid-19

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

2021 sẽ là năm khởi đầu của chu kỳ tăng trưởng mới

PGS.TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

5 Tháng Sáu, 2021

Quỹ vaccine sẽ khả thi khi có người dân đóng góp

Phạm Khánh Nam, Việt Dũng

5 Tháng Sáu, 2021

Kích thích kinh tế, gia tăng vận tốc dòng tiền

Quách Doanh Nghiệp

5 Tháng Sáu, 2021

Đi tìm chiến lược hậu Covid-19 cho doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam

PGS TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo, ThS Lê Văn

5 Tháng Sáu, 2021

Insurtech – Cơ hội và thách thức cho Startup Việt

Ths. Lê Thị Hồng Hoa

5 Tháng Sáu, 2021