[Podcast] Báo cáo kinh tế TP.HCM: Phục hồi và Thách thức – Kỳ 1: Tổng quan kinh tế thế giới và Việt Nam nửa đầu năm 2024

1 Tháng Tám, 2024

“Báo cáo Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh: Phục hồi và Thách thức” là ấn phẩm nghiên cứu khoa học do Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh và Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh phối hợp thực hiện nhằm cung cấp cái nhìn toàn diện về kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh trong 06 tháng đầu năm 2024, kết quả đã đạt được, phân tích các thách thức, dự báo khả năng phục hồi, cũng như đề xuất các chính sách gợi ý cho chính quyền Thành phố. Tại kỳ 1 của bài viết, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu tổng quan kinh tế thế giới và Việt Nam trong nửa đầu năm 2024.

Tóm lược nghiên cứu

Trong 6 tháng đầu năm 2024, nền kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi và đạt được mức tăng trưởng tương đối cao so với dự báo, đặc biệt là hai thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam nói chung và TP. HCM nói riêng là Mỹ và Trung Quốc.

Trong bối cảnh thuận lợi này, Việt Nam đạt được mức tăng trưởng GDP tương đối cao trong 6 tháng đầu năm 2024 so với cùng kỳ năm trước, phản ánh sự phục hồi ổn định của tổng cầu đối với hàng hóa và dịch vụ. Xuất khẩu là một yếu tố đóng góp vào sự phục hồi của tổng cầu. Trong khi đó, tiêu dùng và đầu tư (đặc biệt là đầu tư của các doanh nghiệp tiêu dùng nội địa) vẫn chưa thực sự phục hồi mạnh mẽ so với xu hướng trước Đại dịch COVID-19.

TP.HCM cũng đạt được mức tăng trưởng GRDP tương đối cao trong 6 tháng đầu năm 2024 so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực dịch vụ đang có mức tăng trưởng cao và ổn định nhất, theo sau là công nghiệp. Trong khi đó, khu vực xây dựng vẫn còn tăng trưởng khá khiêm tốn.

Trong 6 tháng đầu năm 2024, tốc độ hồi phục của tổng cầu đối với hàng hóa và dịch vụ trên địa bàn TP. HCM đến từ tiêu dùng, tiếp đến là xuất khẩu. Trong đó tiêu dùng trên địa bàn TP. HCM có xu hướng tăng trưởng nhỉnh hơn cả nước, còn xuất khẩu lại tăng trưởng tương đối thấp hơn cả nước.

Tại TP. HCM, nhiều chỉ số cho thấy các doanh nghiệp nội địa đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và chưa có dấu hiệu hồi phục vững chắc trong hoạt động đầu tư trong 6 tháng đầu năm 2024.

Để đạt mục tiêu tăng trưởng trong năm 2024, TP. HCM cần quyết liệt hơn với các giải pháp thúc đẩy tổng cầu trong 6 tháng cuối năm 2024, đặc biệt là các chương trình hành động cụ thể để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp nội địa và đẩy mạnh giải ngân đầu tư công.

Tổng quan kinh tế thế giới và Việt Nam 

*Kinh tế thế giới 

Kết thúc 6 tháng đầu năm 2024, nền kinh tế thế giới vẫn đang trong quá trình hồi phục sau một thời kỳ chịu ảnh hưởng nặng nề bởi Đại dịch COVID-19. Tuy nhiên, tốc độ hồi phục của nền kinh tế thế giới đã không diễn ra nhanh và mạnh như nhiều quan sát lạc quan đã kỳ vọng và nhiều khả năng sẽ không quay trở lại trạng thái như trước Đại dịch COVID-19. Thay vào đó, nền kinh tế thế giới đang từng bước chuyển mình và tìm cách thích nghi với những sự thay đổi ngày càng trở nên sâu sắc hơn: Căng thẳng địa chính trị và sự phân mảnh của thị trường quốc tế, các cuộc xung đột vũ trang kéo dài (đặc biệt là Nga-Ukraine và khu vực Trung Đông), mặt bằng lãi suất tương đối cao, sự chững lại của nền kinh tế Trung Quốc và rủi ro thiên tai dịch bệnh ngày càng cao.

Trong ấn phẩm Triển Vọng Kinh Tế Thế Giới (World Economic Outlook) vào tháng 4/2024, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế nâng triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế thế giới lên 3,2% trong năm 2024 (tăng so với mức dự báo 2,9% vào tháng 10/2023). Tuy nhiên, con số này vẫn còn cách xa mức tăng trưởng trong hai thập kỷ trước Đại dịch COVID-19 (tốc độ tăng trưởng trung bình mỗi năm của nền kinh tế thế giới trong giai đoạn này là khoảng 3,8%). Tương tự, các tổ chức quốc tế khác cũng nâng dự báo về triển vọng kinh tế thế giới trong năm 2024. Ví dụ trong ấn phẩm Triển Vọng Kinh Tế Toàn Cầu (Global Economic Prospects) vào tháng 6/2024, Ngân Hàng Thế Giới cũng nâng triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế thế giới lên 2,6% trong năm 2024 (tăng so với mức dự báo 2,4% vào tháng 1/2024). Trong ấn phẩm Tình Hình và Triển Vọng Kinh Tế Thế Giới vào tháng 5/2024, Liên Hiệp Quốc cũng nâng triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế thế giới lên 2,7% trong năm 2024 (tăng so với mức dự báo 2,4% vào tháng 1/2024)1.

Tại Mỹ, nền kinh tế cho thấy sức chống chịu tốt hơn kỳ vọng với việc lãi suất được Cục Dự Trữ Liên Bang (FED) duy trì ở mức cao nhất trong hơn hai thập kỷ. Các chỉ số cho thấy lạm phát vẫn tiếp tục hạ nhiệt, mặc dù tốc độ chậm và chứa đựng nhiều rủi ro. Đây là lý do chính khiến FED vẫn chưa có dấu hiệu cắt giảm lãi suất trong 6 tháng đầu năm 2024 như kỳ vọng hồi đầu năm của thị trường và các nhà quan sát lạc quan2. Việc cắt giảm lãi suất nếu có xảy ra trong 6 tháng cuối năm 2024 cũng khó có khả năng sẽ diễn ra nhanh và mạnh. IMF nâng dự báo tăng trưởng kinh tế của Mỹ trong năm 2024 lên 2,7% (tăng so với mức dự báo 1,5% vào tháng 10/2023).

Trái với tình hình ở Mỹ, các nền kinh tế lớn tại Châu Âu nhìn chung tăng trưởng thấp hơn do chịu tác động tiêu cực nhiều hơn trước các đợt tăng lãi suất của Ngân Hàng Trung Ương Châu Âu (ECB). Tuy nhiên, lạm phát ở các quốc gia thuộc Khu Vực Đồng Euro giảm nhanh và bền vững hơn so với Mỹ. Điều này được kỳ vọng sẽ khiến ECB chủ động cắt giảm lãi suất sớm hơn FED, tạo động lực thúc đẩy phục hồi kinh tế cho các quốc gia thành viên trong tương lai gần. IMF hạ dự báo tăng trưởng của nền kinh tế lớn nhất Khu Vực Đồng Euro là Đức xuống 0,2% trong năm 2024 (giảm so với mức dự báo 0,9% vào tháng 10/2023) và hạ dự báo tăng trưởng của Khu Vực Đồng Euro xuống 0,8% (giảm so với mức dự báo 1,2% vào tháng 10/2023).

Tại Châu Á, nền kinh tế Trung Quốc ghi nhận mức tăng trưởng vượt kỳ vọng trong quý I/2024 nhờ hàng loạt các chính sách kích thích kinh tế. Tuy nhiên, các chỉ báo kinh tế cho thấy nền kinh tế Trung Quốc vẫn đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn từ thị trường bất động sản, nợ công địa phương và chi tiêu tiêu dùng của người dân. IMF nâng dự báo tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc lên 5% trong năm 2024 (tăng so với mức dự báo 4,2% vào tháng 10/2023). Trái lại, nền kinh tế Ấn Độ tiếp tục duy trì được đà tăng trưởng cao nhờ vào chi tiêu tiêu dùng của người dân và đầu tư công. IMF nâng dự báo tăng trưởng của nền kinh tế Ấn Độ lên 6,8% trong năm 2024 (tăng so với mức dự báo 6,3% vào tháng 10/2023). Trong ấn phẩm Triển Vọng Phát Triển Châu Á (Asian Economic Outlook) vào tháng 4/2024, khu vực Đông Nam Á cũng được Ngân Hàng Phát Triển Châu Á dự báo tăng trưởng 4,6% trong năm 2024 (giảm nhẹ so với mức dự báo 4,7% vào tháng 12/2023).

Trong ngắn hạn, lạm phát toàn cầu nhìn chung vẫn tiếp tục hạ nhiệt, mở ra nhiều triển vọng hơn về việc các ngân hàng trung ương sẽ bắt đầu cắt giảm lãi suất. Tuy nhiên, dữ liệu cũng bắt đầu cho thấy một sự phân kỳ trong tốc độ giảm lạm phát giữa các nền kinh tế lớn trên thế giới. Điều này có thể dẫn đến sự lệch pha giữa chính sách tiền tệ của các nền kinh tế lớn và gây ra nhiều biến động trên thị trường ngoại hối. Những biến động này, cùng với căng thẳng địa chính trị và sự phân mảnh của thị trường toàn cầu, xung đột vũ trang ở Nga-Ukraine hay khu vực Trung Đông sẽ tiếp tục phủ bóng lên nền kinh tế thế giới nhiều rủi ro và bất định.

Kinh tế Việt Nam 

Nền kinh tế toàn cầu hồi phục, đặc biệt là hai thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là Mỹ và Trung Quốc, đã và đang đem lại nhiều thuận lợi cho hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2024. GDP quý I/2024 và quý II/2024 của Việt Nam ước tính tăng lần lượt là 5,66% và 6,93% so với cùng kỳ năm trước. Hình 1 cho thấy đây là những mức tăng trưởng cao tương đối kể từ sau Đại dịch COVID-19 và xung đột Nga-Ukraine (2020-2024). Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng mức nền so sánh của quý I/2023 và quý II/2023 là khá thấp. Do đó mức tăng trưởng này không phải là quá cao so với mức trung bình của các năm trước Đại dịch COVID-19 (2015-2019).

Tốc độ tăng trưởng GDP quý I/2024 và quý II/2024 phản ánh xu hướng phục hồi của tổng cầu đối với hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế Việt Nam. Trong đó, yếu tố đầu tiên đóng góp vào sự phục hồi này là lực kéo đến từ thị trường quốc tế. Kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2024 của Việt Nam ước tính đạt 190,08 tỷ USD, tăng 14,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước chiếm 28,1% tổng kim ngạch xuất khẩu và tăng 20,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) chiếm 71,9% và tăng 12,3%.

Các thành tố nội địa là tiêu dùng và đầu tư cũng góp phần thúc đẩy đà phục hồi của tổng cầu. Tuy nhiên, nhìn vào hai thước đo của tiêu dùng và đầu tư là tiêu dùng cuối cùng và tích lũy tài sản cho thấy nhu cầu chi tiêu của người dân và đầu tư của doanh nghiệp vẫn chưa thực sự hồi phục mạnh mẽ như kỳ vọng. Tính theo giá so sánh, tiêu dùng cuối cùng và tích lũy tài sản 6 tháng đầu năm 2024 của Việt Nam ước tính tăng lần lượt là 5,78% và 6,72% so với 6 tháng đầu năm 2023, vốn dĩ là một mức nền khá thấp. Hình 2 cho thấy đây là những mức tăng cao kể từ sau Đại dịch COVID-19 và xung đột Nga-Ukraine (2020-2024), nhưng vẫn còn thấp so với các năm trước đó (2015-2019).

Có thể nhìn sâu hơn vào các nguồn vốn đầu tư để hiểu rõ hơn tình hình đầu tư của các doanh nghiệp. Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội (theo giá hiện hành) 6 tháng đầu năm 2024 ước tính tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước, một con số khiêm tốn nếu cân nhắc đến yếu tố tăng giá. Trong đó, vốn khu vực nhà nước chiếm 27% và tăng 4,8%; khu vực ngoài nhà nước chiếm 55,1% và tăng 6,7%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 17,9% và tăng 10,3%. Điều này phản ánh đầu tư của các doanh nghiệp nội địa vẫn còn phục hồi khá chậm, trong khi đó đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng trưởng mạnh hơn.

Tình hình giá cả 6 tháng đầu năm 2024 cũng diễn biến tương đối thuận lợi. Hình 3 cho thấy lạm phát 6 tháng đầu năm 2024 của Việt Nam, đo bằng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) so với cùng kỳ năm trước, có xu hướng tăng lên. Bình quân 6 tháng đầu năm 2024 CPI tăng 4,08% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, mức tăng này phần lớn đến từ các nhóm hàng tiêu dùng có tốc độ tăng cao trên 4%: (1) nhóm lương thực tăng 15,76%, trong đó giá gạo tăng 20,98% theo giá gạo xuất khẩu; (2) nhóm giáo dục với mức tăng 8,58% do trong năm học 2023-2024 một số tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương đã tăng mức học phí theo Nghị quyết của Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh; (3) nhóm thuốc và dịch vụ y tế với mức tăng 7,07% do giá dịch vụ y tế được điều chỉnh theo Thông tư số 22/2023/TT-BYT của Bộ Y tế từ ngày 17/11/2023; (4) nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 5,51% phần lớn đến từ chỉ số giá điện và nước sinh hoạt lần lượt tăng 9,45% và 10,15%. Lạm phát 6 tháng đầu năm 2024 tăng lên gây ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống sinh hoạt của người dân, là vấn đề cần phải theo dõi sát sao trong thời gian tới. Tuy nhiên, có thể thấy rằng mức tăng này phần lớn đến từ hai nguồn: (1) các nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng do nhà nước quản lý, việc tăng giá mang tính chất tạm thời và không lặp lại liên tục; (2) nhóm lương thực, thực phẩm, việc tăng giá chủ yếu đến từ các nguyên nhân khách quan ngẫu nhiên như chiến tranh, dịch bệnh hay thiên tai.

Để đánh giá đúng những thay đổi trong mức giá chung mang tính chất dài hạn, phản ánh sự thay đổi của tổng cầu đối với hàng hóa và dịch vụ trong tương quan khả năng cung ứng tiềm năng trong dài hạn của nền kinh tế, chúng ta cần phải nhìn vào lạm phát cơ bản. Lạm phát cơ bản đo lường thay đổi trong mức giá chung sau khi đã loại trừ những thay đổi mang tính chất ngẫu nhiên, tạm thời của chỉ số giá tiêu dùng. Cụ thể, lạm phát cơ bản được tính dựa trên chỉ số giá tiêu dùng sau khi loại trừ các nhóm hàng lương thực, thực phẩm, năng lượng và mặt hàng do nhà nước quản lý gồm dịch vụ y tế và dịch vụ giáo dục. Hình 3 cho thấy lạm phát cơ bản của Việt Nam đã liên tục giảm xuống từ tháng 1/2023 và giữ ổn định quanh mức 2,75% trong 6 tháng đầu năm 2024. Điều này phản ánh tiêu dùng và đầu tư vẫn đang hồi phục khá chậm, tổng cầu đối với hàng hóa và dịch vụ đang ở dưới mức sản xuất tiềm năng nên chưa gây ra nhiều sức ép dài hạn lên mặt bằng giá cả tiêu dùng. Trong 6 tháng cuối năm 2024, chính phủ cần phải tiếp tục đẩy mạnh các chính sách kích cầu, trọng tâm là giải ngân đầu tư công.

Mặc dù nâng mức dự báo tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu nói chung, các tổ chức quốc tế vẫn giữ nguyên dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế trong tháng 4/2024 dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam ở mức 5,8% trong năm 2024 (giữ nguyên so với mức dự báo vào tháng 10/2023). Ngân Hàng Thế Giới trong tháng 6/2024 dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam ở mức 5,5% trong năm 2024 (giữ nguyên so với mức dự báo vào tháng 1/2024). Ngân Hàng Phát Triển Châu Á trong tháng 4/2024 dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam ở mức 6% trong năm 2024 (giữ nguyên so với mức dự báo vào tháng 12/2023). Điều này phần nào phản ánh quan ngại của các tổ chức quốc tế về việc Việt Nam đang phải đối mặt với các vấn đề khó khăn xuất phát từ chính bên trong nền kinh tế.

Xem toàn bộ Báo cáo Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh: Phục hồi và Thách thức TẠI ĐÂY.

Nhóm tác giả: TS. Hồ Hoàng Anh – Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (chủ biên); ThS. Nguyễn Văn Thắng – Cục Thống kê TP.HCM (đồng chủ biên); Lê Minh Hùng – Cục Thống kê TP. HCM; TS. Nguyễn Thanh Bình, Cục Thống kê TP. HCM; ThS. Võ Đức Hoàng Vũ – Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

Ban cố vấn: GS.TS. Nguyễn Đông Phong – Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh; GS.TS. Sử Đình Thành – Giám đốc Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh; ThS. Nguyễn Khắc Hoàng – Cục trưởng Cục Thống kê TP. HCM; GS.TS. Nguyễn Trọng Hoài – Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh; PGS.TS. Phạm Khánh Nam – Hiệu trưởng Trường Kinh tế, Luật và Quản lý Nhà nước UEH.

Đây là bài viết nằm trong Chuỗi bài lan tỏa nghiên cứu và kiến thức ứng dụng từ UEH với thông điệp “Research Contribution For All – Nghiên Cứu Vì Cộng Đồng”, UEH trân trọng kính mời Quý độc giả cùng đón xem bản tin UEH Research Insights #127 tiếp theo.

Tin, ảnh: Tác giả, Phòng Marketing Truyền thông UEH

Giọng đọc: Ngọc Quí

Chu kỳ giảm giá của đồng USD?

TS. Đinh Thị Thu Hồng và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Việt Nam cần kịch bản cho thương mại tương lai

ThS. Tô Công Nguyên Bảo

26 Tháng Sáu, 2021

Hệ thống tiền tệ tiếp theo như thế nào?

TS. Lê Đạt Chí và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Chuyển đổi số trong khu vực công tại Việt Nam

Khoa Quản lý nhà nước

26 Tháng Sáu, 2021

Cần đưa giao dịch công nghệ lên sàn chứng khoán

Bộ Khoa học và Công nghệ

5 Tháng Sáu, 2021

Thiết kế đô thị: tầm nhìn vững chắc cho đô thị bền vững

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

Phục hồi du lịch và nỗ lực thoát khỏi vòng xoáy ảnh hưởng bởi Covid-19

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

2021 sẽ là năm khởi đầu của chu kỳ tăng trưởng mới

PGS.TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

5 Tháng Sáu, 2021

Quỹ vaccine sẽ khả thi khi có người dân đóng góp

Phạm Khánh Nam, Việt Dũng

5 Tháng Sáu, 2021

Kích thích kinh tế, gia tăng vận tốc dòng tiền

Quách Doanh Nghiệp

5 Tháng Sáu, 2021

Đi tìm chiến lược hậu Covid-19 cho doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam

PGS TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo, ThS Lê Văn

5 Tháng Sáu, 2021

Insurtech – Cơ hội và thách thức cho Startup Việt

Ths. Lê Thị Hồng Hoa

5 Tháng Sáu, 2021