[Podcast] Chuyển đổi từ kinh tế tuyến tính sang kinh tế tuần hoàn: Rào cản và gợi ý cho Việt Nam
12 Tháng Chín, 2024
Từ khóa: phát triển bền vững, kinh tế tuần hoàn, tài chính bền vững, quản trị bền vững, UEH SFI, ESG, SDG
Con người đã bước qua giới hạn chịu đựng của hành tinh do sản xuất và tiêu dùng quá mức diễn ra trong thời dan dài. Biến đổi khí hậu trở thành rủi ro lớn nhất mà con người đang phải gánh chịu (WEF, 2024). Trong bối cảnh đó, phát triển bền vững không còn là sự lựa chọn, mà gần như bắt buộc ở hầu hết các quốc gia trên toàn cầu. Để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, kinh tế tuần hoàn nổi lên như một công cụ quan trọng (Cagno et al. 2023; Knable et al. 2022), mang lại hiệu quả môi trường vượt trội thông qua hiệu quả sử dụng năng lượng và tài nguyên cũng như giảm chất thải (Dey và cộng sự, 2022). Tuy vậy, để chuyển từ mô hình kinh tế tuyến tính sang mô hình kinh tế tuần hoàn, đòi hỏi sự tham gia đóng góp của tất cả các nhóm chủ thể trong xã hội và mỗi nhóm đều cần phải vượt qua các thách thức đặc thù. Trên cơ sở nhận diện các rào cản, đúc kết các phát hiện từ các nghiên cứu liên quan, bài viết của Viện Tài chính bền vững và Ban đề án Bền vững thuộc Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (UEH) đã đưa ra các gợi ý thúc đẩy sự chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn cho bối cảnh Việt Nam, một quốc gia với đặc thù có đến 98% là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Kinh tế tuần hoàn và vai trò của các chủ thể
Có thể hình dung sự chuyển đổi từ nền kinh tế tuyến tính sang nền kinh tế tuần hoàn qua sơ đồ sau:
Như vậy, kinh tế tuần hoàn không đơn thuần chỉ là “tái chế”, mà nội hàm rộng hơn với một hệ thống các “vòng tròn lặp” (Xem hình 1c). Và để hệ thống “vòng tròn lặp” đó vận hành trơn tru đòi hỏi phải có sự tham gia đóng góp của tất cả các nhóm chủ thể trong xã hội. Trong đó, nhà nước đóng vai trò lãnh đạo và dẫn đường. Thông qua thuế và chi tiêu công, cũng như các qui định và các chính sách khác (kể cả truyền thông và giáo dục), nhà nước có thể tác động, điều chỉnh hành vi sản xuất của các doanh nghiệp và tiêu dùng của công chúng hướng đến thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững. Chẳng hạn thông qua thuế – phí hợp lý kết hợp truyền thông và giáo dục, nhà nước có thể làm cho người tiêu dùng phải cân nhắc, suy nghĩ lại, giảm thiểu hoặc thậm chí từ chối tiêu dùng một số sản phẩm và dịch vụ (R0, R1, R2). Với việc tái sử dụng, sửa chữa, tân trang, tái sản xuất, tái sử dụng với mục đích khác, tái chế, thu hồi năng lượng (R3 đến R9), khu vực doanh nghiệp sẽ đóng vai trò là chìa khóa vì hoạt động của khu vực này gắn liền với chuỗi giá trị sản xuất và cung ứng. Lúc này, thiết kế bền vững trở thành giai đoạn hết sức quan trọng, nó bao hàm thiết kế kết cấu sản phẩm, lựa chọn các nguyên liệu, phụ liệu đầu vào, và công nghệ sản xuất thích hợp nhất để đạt được tính bền vững. Hay nói cách khác, thiết kế bền vững là đưa tính bền vững vào toàn bộ vòng đời sản phẩm, để đạt được sự cân bằng tối ưu giữa ba mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường. Nhà thiết kế sẽ hỗ trợ khả năng kéo dài tuổi thọ của sản phẩm lâu nhất có thể bằng cách tính đến tái sử dụng, sửa chữa và khả năng tân trang lại sản phẩm, và cải thiện khả năng tái chế của vật liệu. Đối với mỗi bước trong vòng đời, người thiết kế sẽ cố gắng giảm các yếu tố đầu vào như năng lượng, nước và vật liệu/phụ liệu và giảm lượng phát thải, chất thải mà quy trình đó thải ra. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chức năng “thiết kế” đóng góp nhiều nhất vào việc áp dụng thành công kinh tế tuần hoàn (Dey và cộng sự, 2022). Như vậy, ở đây vai trò “dẫn đường” của nhà nước lại nổi lên rất rõ. Chính sách thuế – phí, chi tiêu ngân sách, chính sách thúc đẩy đổi mới công nghệ, nghiên cứu và phát triển cần được xây dựng sao cho vừa tạo sức ép, vừa tạo động lực và điều kiện thúc đẩy các doanh nghiệp thực hành kinh doanh bền vững.
Trong bối cảnh đó, việc doanh nghiệp vận dụng các mô hình kinh tế tuần hoàn không chỉ là hành động thích ứng với chiến lược và các chính sách của Chính phủ, mà còn giúp các doanh nghiệp định vị thương hiệu, tăng cường khả năng cạnh tranh và khả năng chịu đựng trước những biến đổi từ bên ngoài. Bằng cách áp dụng các mô hình tuần hoàn, doanh nghiệp có thể giảm thiểu chi phí sản xuất, tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên, và tạo ra giá trị gia tăng từ việc tái chế và tái sử dụng vật liệu. Kinh tế tuần hoàn cũng mở ra các cơ hội mới trong việc phát triển sản phẩm, dịch vụ và thị trường. Khi người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến các sản phẩm bền vững, các doanh nghiệp áp dụng mô hình tuần hoàn sẽ có lợi thế cạnh tranh vượt trội. Đổi mới không chỉ dừng lại ở việc áp dụng công nghệ mà còn bao gồm việc thay đổi tư duy và cách thức kinh doanh. Điều này đòi hỏi các nhà lãnh đạo doanh nghiệp phải có tầm nhìn xa, hiểu rõ xu hướng thị trường và sẵn sàng đầu tư vào các giải pháp bền vững.
Ngoài ba nhóm chủ thể trên, các nhà đầu tư tác động, xã hội dân sự và các đơn vị giáo dục cũng đóng vai trò đáng kể trong sự chuyển đổi mô hình kinh tế.
Các rào cản cần vượt qua
Dace và cộng sự (2024) đã chỉ ra 6 nhóm rào cản đối với việc chuyển đổi từ mô hình kinh tế tuyến tính sang mô hình kinh tế tuần hoàn gồm:
- Rào cản văn hóa: liên quan đến thói quen và truyền thống tiêu dùng, nhận thức và kiến thức của người tiêu dùng; thiếu kiến thức kỹ năng và chuyên môn chuyên sâu về sản xuất dựa trên sinh học; văn hóa quản trị điều hành kinh doanh theo lối mòn. Rào cản này càng lớn hơn khi thiếu động lực để thay đổi hành vi của người tiêu dùng, hành vi của nhà sản xuất và thiếu cả sự hợp tác của các bên liên quan.
- Rào cản kỹ thuật: liên quan đến phát triển, đổi mới và áp dụng công nghệ, năng lực cơ sở hạ tầng, chất lượng và số lượng nguyên liệu, thành phần nguyên liệu cũng như số hóa và tự động hóa.
- Rào cản kinh tế: liên quan đến chi phí phát sinh của công ty, lợi nhuận, khả năng cạnh tranh, khả năng tiếp cận nguồn vốn và đầu tư của công ty, cũng như các rào cản liên quan đến thị phần, nhu cầu và giá cả của sản phẩm. Rào cản kinh tế và rào cản kỹ thuật lại có mối quan hệ mật thiết với nhau.
- Rào cản môi trường: liên quan đến hiệu quả hoạt động môi trường của sản phẩm và quy trình cũng như đánh giá tác động môi trường, đặc biệt việc thiếu dữ liệu về tác động môi trường gây khó khăn cho tất cả các chủ thể liên quan trong việc ra quyết định vì mục tiêu bền vững.
- Rào cản quản trị: liên quan đến chính sách, quy định, mục tiêu chính sách và ưu đãi cũng như các tiêu chuẩn, thủ tục tiêu chuẩn hóa và qui trình chứng nhận. Trong đó, việc chính phủ thiếu các chính sách hỗ trợ chuyển đổi, thiếu nhất quán và rõ ràng về chính sách, thủ tục phức tạp là những điểm nổi bật được ghi nhận trong nhóm rào cản này.
- Rào cản về cấu trúc: rào cản này nhấn mạnh đến sự thiếu hợp tác của các bên liên quan trong chuỗi giá trị (bao gồm cả trao đổi thông tin) và thiếu các sáng kiến tuần hoàn có tính hệ thống.
Riêng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nghiên cứu của Takacs và cộng sự (2022) chỉ ra rằng ngoài những rào cản bên ngoài công ty (công nghệ, thị trường, luật pháp, xã hội và người tiêu dùng), còn có 6 nhóm rào cản nội tại rất đặc thù ngăn cản doang nghiệp vừa và nhỏ tham gia hiện thực hóa kinh tế tuần hoàn gồm: lo ngại rủi ro, không muốn bước ra khỏi vùng an toàn vốn có; định hướng ngắn hạn; tư duy kinh tế thống trị; không sẵn sàng tham gia vào sự đánh đổi do thiếu các hướng dẫn cần thiết về việc làm sao để đánh đổi tối ưu; thiếu nguồn lực và thiếu kiến thức – đặc biệt kiến thức về các khái niệm và cơ hội của kinh tế tuần hoàn lại càng thiếu (Ormazabal và cộng sự, 2018; Rizos và cộng sự, 2015).
Gợi ý cho Việt Nam
Theo WB (2020, 2022) Việt Nam là một trong năm quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu. Các tính toán cho thấy: (i) Việt Nam mất 10 tỷ USD vào năm 2020, tương đương 3,2% GDP do tác động của biến đổi khí hậu; (ii) Nếu không có các biện pháp thích ứng và giảm nhẹ thích hợp, ước tính biến đổi khí hậu sẽ khiến Việt Nam thiệt hại khoảng 12% đến 14,5% GDP mỗi năm vào năm 2050; (iii) Có thể khiến 1 triệu người rơi vào tình trạng nghèo đói cùng cực vào năm 2030; (iv) Mỗi năm khoảng 316.000 lao động bị mất việc do ảnh hưởng của lũ sông và ngập lụt ven biển; (v) Nếu không có các biện pháp thích ứng hiệu quả, từ 6 đến 12 triệu người có thể bị ảnh hưởng bởi lũ lụt ven biển vào năm 2070 – 2100, tùy thuộc vào lộ trình phát thải toàn cầu.
Thế nên, chủ trương thực hiện chuyển đổi từ kinh tế truyền thống sang kinh tế tuần hoàn của Chính phủ (Quyết định 687/QĐ-TTg ngày 7.6.2022) là rất đáng hoan nghênh. Tuy vậy, với đặc thù doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới 98% số lượng các doanh nghiêp (Tổng cục thống kê, 2017), việc tập trung tháo gỡ các rào cản gắn với đặc thù doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ là cách để thúc đẩy sự chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn cho bối cảnh Việt Nam. Cụ thể:
*Phát huy vai trò lãnh đạo, dẫn đường của nhà nước
Cần phải lồng ghép và cụ thể hóa các mục tiêu phát triển kinh tế tuần hoàn vào trong tất cả các chính sách, luật liên quan để đảm bảo sự nhất quán và đồng bộ hóa. Gợi ý này nhằm xử lý rào cản “thiếu nhất quán và rõ ràng về chính sách, thủ tục phức tạp” được ghi nhận từ các nghiên cứu đã được công bố. Ngoài ra, cần đưa nội dung về kinh tế tuần hoàn vào các quy hoạch, kế hoạch hành động, lộ trình thực hiện có liên quan đến doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ để đảm bảo phát huy vai trò của doanh nghiệp là chủ thể đóng góp quan trọng vào sự chuyển đổi.
Đặc biệt, với thực trạng “nhận thức về kinh tế tuần hoàn chưa cao, thiếu vốn và công nghệ, quản trị và điều hành theo lối mòn” của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ hiệu quả và thiết thực nhằm nâng cao nhận thức về kinh tế tuần hoàn, nâng cao kiến thức, kỹ năng và chuyên môn chuyên sâu về sản xuất dựa trên sinh học, tăng khả năng tiếp cận vốn và đổi mới công nghệ, cải thiện quản trị doanh nghiệp theo hướng bền vững. Một đặc điểm nổi bật của doanh nghiệp vừa và nhỏ là chủ sở hữu và người sáng lập doanh nghiệp cũng thường là người quản lý; do đó, quản lý và quyền sở hữu nằm trong tay cùng một người hoặc một nhóm người, đặc biệt là trong các doanh nghiệp do gia đình điều hành. Như vậy, nâng cao nhận thức của nhà quản lý doanh nghiệp về kinh tế tuần hoàn, cải thiện khả năng nhận diện được các cơ hội mới trong nền kinh tế tuần hoàn, để họ chủ động tham gia và cam kết, sẽ có tác dụng lớn trong việc chuyển đổi mô hình kinh doanh từ tuyến tính sang bền vững của các doanh nghiệp ở Việt Nam.
Muốn thực hiện được các nội dung đề xuất trên, nghiên cứu của Maitre-Ekern and Dalhammar (2019), chỉ ra rằng các nhà hoạch định chính sách nên học hỏi từ các bằng chứng khoa học cũng như kinh nghiệm thực tế để sửa đổi quan điểm và tầm nhìn của mình cho phù hợp với kỷ nguyên phát triển bền vững. Bởi vì, bản thân khu vực công cũng đang thiếu các kiến thức và kinh nghiệm quản lý để đạt được mục tiêu phát triển bền vững. Chẳng hạn, định giá tín chỉ các-bon cao có thể đạt mục tiêu giảm phát thải nhưng lại có thể tăng chi phí và giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực nhạy cảm với phát thải khí nhà kính, làm xáo trộn mục tiêu tái phân phối thu nhập và khả năng tiếp cận sản phẩm thân thiện với môi trường của người thu nhập thấp, gây áp lực lạm phát và thất nghiệp có thể gia tăng. Do vậy, việc ứng dụng các mô hình nghiên cứu để thực hiện ước lượng mức giá các-bon hợp lý nhằm đạt được mục tiêu phát triển bền vững là rất cần thiết. Tương tự như vậy cho các chính sách và hoạt động chi tiêu ngân sách khác, đặc biệt là các chính sách và hoạt động chi tiêu để thực hiện các chương trình hỗ trợ.
Vai trò của nhà nước còn rất quan trọng trong việc xây dựng cơ chế và tạo điều kiện để tháo gỡ rào cản cấu trúc, nhằm gia tăng sự hợp tác của các bên liên quan trong chuỗi giá trị (bao gồm cả trao đổi thông tin) và khuyến khích các sáng kiến tuần hoàn mang tính hệ thống. Khía cạnh này nhấn mạnh vai trò của nhà nước trong việc tạo ra và duy trì khuôn khổ để doanh nghiệp luôn phát triển đổi mới sáng tạo (Ellen MacArthur Foundation, 2013).
Ngoài ra, với rào cản văn hóa “tiêu dùng theo hướng tiện lợi”, bên cạnh các chính sách thuộc về cơ chế giá như thuế, phí, trợ cấp, Nhà nước cũng cần thiết lập chính sách giáo dục từ sớm để thay đổi nhận thức và phát triển văn hóa tiêu dùng có trách nhiệm. Với vai trò là người mua, người sử dụng và người thải các sản phẩm đã qua sử dụng, người tiêu dùng đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế tuần hoàn. Tăng tỷ lệ người dân tiêu dùng có trách nhiệm, một lần nữa lại buộc các doanh nghiệp sản xuất có trách nhiệm hơn.
Các đề xuất trên làm nổi lên một mối quan hệ rất quan trọng giữa Nhà nước – Trường đại học – Doanh nghiệp, đó là mô hình giao thoa (Hybrid) của mô hình Triple Helix. Khái niệm Triple Helix về hệ thống đổi mới cho rằng, không gian đồng thuận giữa doanh nghiệp – chính phủ – trường đại học là cần thiết để tập hợp năng lực của họ nhằm đạt được sự phát triển kinh tế và xã hội nâng cao trên quy mô hệ thống. Theo đó, sự đồng thuận đầy đủ giữa ba khu vực Triple Helix có thể thúc đẩy việc áp dụng kinh tế tuần hoàn không chỉ ở các lĩnh vực riêng lẻ mà còn giúp đạt được những thay đổi mang tính hệ thống trên qui mô lớn (Anttonen et al.,2018). Trong mô hình này, đầu vào cho các hoạt động hoạch định chính sách của Nhà nước là từ doanh nghiệp và trường đại học. Doanh nghiệp cần chỉ ra những rào cản về thủ tục hành chính, đề xuất các cơ chế hợp tác phù hợp, các chính sách hỗ trợ phát triển kinh doanh, thuế, đầu tư làm cơ sở để Nhà nước xây dựng và cải thiện môi trường kinh doanh, đầu tư và hỗ trợ cho doanh nghiệp. Nhà nước cũng cần chủ động đặt hàng từ các trường đại học về việc cung ứng các dịch vụ đào tạo, nghiên cứu và tư vấn để đảm bảo nguồn nhân lực phục vụ phát triển bền vững cho cả khu vực công và khu vực tư, đề đạt cho Nhà nước các chiến lược, chính sách phát triển có cơ sở khoa học dựa trên dữ liệu. Sản phẩm đầu ra chính là những chính sách, văn bản quy phạm pháp luật được Nhà nước thông qua và ban hành, có giá trị hiệu lực pháp lý. Các chính sách này lại trở thành cơ sở pháp lý, tác động vào hoạt động của doanh nghiệp và trường đại học. Việc hoạch định chính sách của Chính phủ là bước đầu tiên để tạo ra một môi trường thuận lợi cho quá trình chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn. Ngoài ra, việc kết nối giữa các trường đại học và các doanh nghiệp sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp rất nhiều trong quá trình chuyển đổi. Các trường đại học có tầm quan trọng đặc biệt trong việc tạo ra và đưa kiến thức mới vào thực tiễn, biến nó thành những đổi mới, bằng sáng chế cũng như các hình thức tổ chức và kinh doanh mới (Ranga, M.; Etzkowitz, H.2013) có thể tạo ra sự chuyển đổi cấp độ hệ thống cần thiết để kinh tế tuần hoàn trở thành hiện thực (Ghisellini et al., 2016, Murray et al., 2017, Winans et al., 2017). Như vậy, trường đại học có vai trò tích cực thay vì chỉ đơn thuần là nguồn cung cấp tri thức cho các lĩnh vực khác sử dụng và phát triển (Ranga, M.; Etzkowitz, H.2013). Bởi vậy, củng cố mối quan hệ Nhà nước – Trường đại học – Doanh nghiệp qua mô hình Triple Helix cũng là một điểm nhấn quan trọng để chuyển từ kinh tế tuyến tính sang kinh tế tuần hoàn trong bối cảnh Việt Nam.
*Các doanh nghiệp hiện thực hóa kinh tế tuần hoàn thông qua chuyển đổi từ mô hình kinh doanh truyền thống sang mô hình kinh doanh bền vững
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, cách phổ biến nhất để các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện thực hóa kinh tế tuần hoàn là chuyển đổi từ mô hình kinh doanh tuyến tính sang mô hình kinh doanh bền vững (Frankenberger và cộng sự, 2021; Geissdoerfer và cộng sự, 2020; Rizos và cộng sự, 2016; Santa Maria và cộng sự, 2021; Ünal và cộng sự, 2018). Để chuyển đổi thành công, bên cạnh sự hỗ trợ của nhà nước, các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải tự nỗ lực vượt qua các rào cản nội tại của bản thân.
Trước hết, tận dụng lợi thế linh hoạt và nhanh nhạy cao trong thị trường, thích ứng nhanh chóng và cạnh tranh tốt trong các thị trường ngách (Jenkins, 2006; Koirala, 2018), mỗi doanh nghiệp vừa và nhỏ phải coi mình là một hệ thống mở, liên tục tạo sự tương tác giữa môi trường bên trong và bên ngoài của mình, kết hợp các phản hồi, khám phá và khai thác các cơ hội thông qua việc thích ứng, đổi mới và cải tiến chiến lược (Madu và Kuei, 2012) để vượt qua các rào cản bên trong và bên ngoài. Điều này sẽ giúp các doanh nghiệp đổi mới, gắn kết các giá trị của công ty với môi trường sinh thái, thích ứng nhưng vẫn giảm thiểu được các rủi ro. Đặc biệt, nhận thức đúng về kinh tế tuần hoàn sẽ giúp nhà quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ nhận diện được cả các cơ hội lẫn thách thức. Từ đó, điều chỉnh quan điểm và tư duy quản lý, tìm kiếm và thử nghiệm giải pháp tuần hoàn, điều chỉnh chiến lược tiếp thị và cả chuẩn mực kế toán để đạt được giá trị tích hợp tối ưu nhất.
Muốn vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần có cái nhìn toàn diện về hoạt động sản xuất kinh doanh của mình để khai thác hết tiềm năng vận dụng kinh tế tuần hoàn trong cả chuỗi sản xuất và cung ứng. Từ thiết kế sản phẩm sao cho sản phẩm có thể được sữa chữa, bảo trì, tái chế… đến lựa chọn nguyên liệu, nhà cung cấp nguyên liệu, cách thức vận chuyển… đều đòi hỏi sự tích hợp của tất cả các yếu tố liên quan sao cho đạt được mục tiêu lợi nhuận nhưng phù hợp với mong đợi của người tiêu dùng, tuân thủ các qui định về môi trường và xã hội mà quốc gia sở tại và quốc gia đối tác liên quan đang hướng tới. Có nhiều bằng chứng cho thấy, doanh nghiệp vừa và nhỏ áp dụng nguyên tắc kinh tế tuần hoàn trong chuỗi sản xuất và cung ứng sẽ giúp họ đạt được doanh thu và tăng trưởng kinh doanh cao hơn trong dài hạn (Dey và cộng sự, 2020a). Ngoài ra, lựa chọn nguyên liệu và nhà cung cấp, giảm rủi ro biến động giá nguyên liệu, hợp tác chuỗi cung ứng, thực hành tinh gọn, biện pháp tiết kiệm năng lượng, hậu cần của bên thứ ba, tái sử dụng và tái chế có thể mang lại hiệu quả về mặt chi phí (Lee, 2008; Kumar và cộng sự, 2019). Với những doanh nghiệp vừa và nhỏ đang là vệ tinh của một hệ sinh thái sản xuất và cung ứng mang tính toàn cầu, việc chuyển sang mô hình kinh doanh bền vững sẽ giúp doanh nghiệp nhận được nhiều đơn hàng hơn từ các tập đoàn lớn (Dey và cộng sự, 2015; Ho và cộng sự, 2010; Scott và cộng sự, 2015). Tuy nhiên, lúc này các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần phải đào tạo lực lượng lao động để thực hiện tất cả các chức năng của chuỗi cung ứng khép kín theo các nguyên tắc giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế, có như vậy mới có thể thúc đẩy điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các nguyên tắc của kinh tế tuần hoàn.
Kế đến, để vượt qua rào cản thiếu vốn và công nghệ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể sử dụng giải pháp đầu tư vào hệ sinh thái tuần hoàn xuyên công ty. Bằng cách này, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyển từ mô hình cạnh tranh sang mô hình hợp tác để cùng nhau giải quyết các rào cản mang tính hệ thống. Stead and Stead (2013) cho rằng, đây là cách hoàn hảo để cùng phát triển và thúc đẩy đổi mới vượt qua ranh giới công ty, đồng thời thiết lập tầm nhìn chung về sự thay đổi bền vững.
Thay lời kết
Phát triển bền vững cần sự chung tay của nhiều chủ thể trong xã hội, đòi hỏi sự liên kết xuyên ngành, liên ngành, và kinh tế tuần hoàn được coi là chìa khóa để đạt được mục tiêu. Với bối cảnh Việt Nam, các giải pháp để thực hiện chuyển đổi từ kinh tế tuyến tính sang kinh tế tuần hoàn nên tập trung vào thúc đẩy sự chuyển đổi sang mô hình kinh doanh bền vững của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong đó, mối quan hệ Nhà nước – Trường đại học – Doanh nghiệp theo mô hình Triple Helix cũng là một điểm nhấn quan trọng.
Đây là bài viết của Viện Tài chính bền vững thuộc Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (UEH SFI) – là tổ chức giáo dục đầu tiên tại Việt Nam thực hiện hoạt động tư vấn, đào tạo và nghiên cứu về quản trị bền vững, tài chính bền vững và các lĩnh vực liên quan. Đến nay, Viện đã gặt hái được nhiều thành công trong cả ba mảng: đào tạo, nghiên cứu và tư vấn. Đặc biệt, chương trình đào tạo Cao học Quản trị bền vững doanh nghiệp và môi trường của Viện ngày càng thu hút được đông đảo ứng viên dự tuyển, được các học viên và nhà tuyển dụng đánh giá cao. Viện cũng đã tham gia tích cực vào các diễn đàn quốc tế; thiết lập quan hệ đối tác với các trường đại học có uy tín trên thế giới; cung cấp dịch vụ tư vấn và chuyển giao công nghệ cho các tổ chức quốc tế như Công ty tài chính quốc tế/Ngân hàng Thế giới (IFC/WB), Frankfurt School of Finance & Management, the University Network for Strengthening Macro-financial Resilience to Climate and Environmental Change, Viện tăng trưởng xanh toàn cầu (GGGI). Viện cũng trở thành một trong 5 thành viên sáng lập Ủy ban tài chính bền vững của Eurocham. Đồng thời, với mục tiêu lan tỏa tri thức và dẫn đầu trong lĩnh vực quản trị bền vững và tài chính bền vững ở Việt Nam, Viện cũng chú trọng cung cấp: (i) các khóa đào tạo ngắn hạn chuyên sâu về tài chính bền vững, đầu tư tác động, quản trị rủi ro tài chính liên quan đến biến đổi khí hậu, chiến lược kinh doanh bền vững, báo cáo phát triển bền vững,…; (ii) các dịch vụ tư vấn phù hợp với yêu cầu của từng doanh nghiệp, của chính phủ và chính quyền địa phương về quản trị bền vững.
Bài viết nằm trong Chuỗi bài lan tỏa nghiên cứu và kiến thức ứng dụng từ UEH với thông điệp “Research Contribution For All – Nghiên Cứu Vì Cộng Đồng”, UEH trân trọng kính mời Quý độc giả cùng đón xem bản tin UEH Research Insights tiếp theo.
Tin, ảnh: Viện Tài chính bền vững UEH, Ban đề án Bền vững
Giọng đọc: Thanh Kiều
[Podcast] UEH hướng đến trung hòa carbon: Bước đi đầu tiên
22 Tháng Tám, 2024
[Podcast] Kinh tế tuần hoàn – Chìa khóa đạt được phát triển bền vững
16 Tháng Tám, 2024
[Podcast] Giải pháp nâng cao hoạt động vận động cho sinh viên
9 Tháng Tám, 2024
[Podcast] Phong Cách Lãnh Đạo Đạo Đức Và Hành Vi Ngoài Vai Trò Của Công Chức
29 Tháng Bảy, 2024
[Podcast] Định Hình Chiến Lược Phát Triển Toàn Diện, Bền Vững Cho Đất Nước
25 Tháng Bảy, 2024
[Podcast] Mô Hình Đại Học Bền Vững Dành Cho Các Thị Trường Mới Nổi
19 Tháng Bảy, 2024
[Podcast] Những Tiếp Cận Mới Nhất Dành Cho Các Đại Học Bền Vững
11 Tháng Bảy, 2024
[Podcast] Tác Động Của Nguồn Nhân Lực Xanh Đến Các Mục Tiêu Về Môi Trường
24 Tháng Năm, 2024
Kinh Tế Xã Hội Và Sự Phát Thải CO2 Ở Việt Nam Giai Đoạn 1990 – 2018
23 Tháng Năm, 2024
Pháp Luật Dữ Liệu – Kỳ 1: Cần Một Cách Tiếp Cận Mới
15 Tháng Năm, 2024
[Podcast] Pháp Luật Dữ Liệu – Kỳ 1: Cần Một Cách Tiếp Cận Mới
14 Tháng Năm, 2024
Đánh Giá Quảng Cáo Trên Nền Tảng Tiktok
8 Tháng Năm, 2024
[Podcast] Đánh Giá Quảng Cáo Trên Nền Tảng Tiktok
7 Tháng Năm, 2024
[podcast] Phản Ứng Của Chính Sách Xã Hội Đối Với Đại Dịch Covid-19 Ở Một Số Quốc Gia (Kỳ 1)
8 Tháng Mười Hai, 2023
Promoting Learner Autonomy in English Language Learning (Part 2)
28 Tháng Mười Một, 2023
[Podcast] Ngoại giao kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế
10 Tháng Mười Một, 2023
ArtTech and sustainable development
27 Tháng Mười, 2023
Cộng đồng ArtTech đầu tiên tại Việt Nam – Một năm nhìn lại
9 Tháng Mười, 2023
ArtTech – Một xu hướng tương lai
5 Tháng Mười, 2023
ArtTech và phát triển bền vững
3 Tháng Mười, 2023
[Podcast] Máy Tính Và Công Nghệ “Không Đi Một Mình” – Phần 4
24 Tháng Bảy, 2023
[Podcast] Tác Động Của Đồng Tiền Kỹ Thuật Số Đến Tỷ Giá Hối Đoái
14 Tháng Mười Một, 2022
[Podcast] Chuyển Đổi Số Trong Ngành Du Lịch Việt Nam
5 Tháng Năm, 2022
[Podcast] Chuyển Đổi Số Trong Lĩnh Vực Y Tế Ở Việt Nam
25 Tháng Ba, 2022
[Podcast] Phân Tích Dữ Liệu Con Người Tại Việt Nam
18 Tháng Ba, 2022
[Podcast] Chuyển Đổi Số Trong Nông Nghiệp Ở Việt Nam
11 Tháng Ba, 2022
[Podcast] Mô Hình Kinh Tế Chia sẻ: Các Vấn Đề Quản Lý Ở Việt Nam
21 Tháng Một, 2022
[Podcast] Nâng Cao Trải Nghiệm Khách Hàng Trực Tuyến Trong Ngành Du Lịch
15 Tháng Một, 2022
[Podcast] Chính Sách Lao Động Việc Làm Cho TP. HCM Trong Giai Đoạn Sau Giãn Cách
28 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Xây Dựng Thị Trường Chứng Khoán Phi Tập Trung Dựa Trên Công Nghệ Blockchain
24 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Học Tập Suốt Đời Trong Thế Giới Số: Góc Nhìn Từ Nghề Nghiệp Kế Toán, Kiểm toán
21 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Học Tập Suốt Đời Tại UEH: Hướng Đến Đại Học Bền Vững
14 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Xu Hướng Kinh Doanh Bán Lẻ Trực Tuyến Thời Kỳ Covid
10 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Big Data Cho Mục Tiêu Phát Triển Bền Vững: Kinh Nghiệm Quốc Tế
7 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Cải Cách Luật Đất Đai Để Thúc Đẩy Phát Triển Kinh Tế
2 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Cuộc Cách Mạng Trong Kinh Tế Học Thực Nghiệm
30 Tháng Mười Một, 2021
[Podcast] Chỉ Số Giá Tiêu Dùng Từ Góc Nhìn Khai Thác Dữ Liệu Lớn (Big Data)
17 Tháng Mười Một, 2021
[Podcast] Toàn Cảnh Tiền Tệ Kỹ Thuật Số – Phần 5 : Tiền Ổn Định Tư Nhân Diem
5 Tháng Mười Một, 2021
Đứt gãy chuỗi cung ứng vùng trọng điểm phía Nam: 8 giải pháp
20 Tháng Mười, 2021
[Podcast]Toàn Cảnh Tiền Tệ Kỹ Thuật Số – Phần 2: Những Cột Mốc Phát Triển
19 Tháng Mười, 2021
[Podcast] Toàn cảnh tiền tệ kỹ thuật số – Phần 1: Xu thế của thời đại
15 Tháng Mười, 2021
NGÂN HÀNG BẮT TAY FINTECH (Phần 3): Các Giải Pháp Hỗ Trợ
8 Tháng Mười, 2021
UEH chủ trì thành công Hội thảo ICBF 2021
7 Tháng Mười, 2021
GRSD 2021- Hội thảo khoa học “Tăng trưởng xanh và phát triển bền vững”
6 Tháng Mười, 2021
NGÂN HÀNG BẮT TAY FINTECH (phần 2): Chọn đối tác theo tiêu chí nào?
4 Tháng Mười, 2021
‘Đổi mới giáo dục nghề nghiệp là động cơ tăng trưởng kinh tế’
30 Tháng Chín, 2021
Giải pháp “mở cửa” an toàn với các khu công nghiệp tại TP Hồ Chí Minh
27 Tháng Chín, 2021
Khi cuộc sống “bình thường mới”, nơi ở cho người lao động cần được quan tâm
9 Tháng Chín, 2021
Hướng phát triển mô hình đào tạo luân phiên (Dual Education) tại Việt Nam
6 Tháng Chín, 2021
Webinar: Tương lai ngành Thẩm định giá trong thập niên mới
17 Tháng Tám, 2021
Hãy là người dùng thông minh khi đón nhận và chia sẻ thông tin
9 Tháng Tám, 2021
Webinar: An toàn thông tin kế toán trong kỷ nguyên số
3 Tháng Tám, 2021
Có nên đưa lãi suất tiền gửi VND về 0 phần trăm?
20 Tháng Bảy, 2021
Chu kỳ giảm giá của đồng USD?
TS. Đinh Thị Thu Hồng và nhóm nghiên cứu
26 Tháng Sáu, 2021
Việt Nam cần kịch bản cho thương mại tương lai
ThS. Tô Công Nguyên Bảo
26 Tháng Sáu, 2021
Hệ thống tiền tệ tiếp theo như thế nào?
TS. Lê Đạt Chí và nhóm nghiên cứu
26 Tháng Sáu, 2021
Chuyển đổi số trong trường đại học: Dạy học trực tuyến sẽ trở thành xu hướng tất yếu
GS.TS. Nguyễn Trọng Hoài
26 Tháng Sáu, 2021
Tiền số ngân hàng Trung ương – Vận hành và thử nghiệm
Châu Văn Thành
26 Tháng Sáu, 2021
Chuyển đổi số trong khu vực công tại Việt Nam
Khoa Quản lý nhà nước
26 Tháng Sáu, 2021
“Cấp cứu” doanh nghiệp trước làn sóng COVID-19 thứ 4
23 Tháng Sáu, 2021
Chuyên gia UEH: Việt Nam nên kết hợp tiêm vaccine miễn phí và dịch vụ
23 Tháng Sáu, 2021
Hội thảo khoa học về Thị trường bảo hiểm Việt Nam (Conference on Vietnam’s Insurance Industry – CVII)
Khoa Toán – Thống Kê
7 Tháng Sáu, 2021
Muốn có trung tâm tài chính phải có chiến lược thích ứng
Khoa Tài chính
5 Tháng Sáu, 2021
Bảo vệ thông tin cá nhân trong thời kỳ chuyển đổi số dưới góc nhìn pháp luật
Khoa Luật
5 Tháng Sáu, 2021
Cần đưa giao dịch công nghệ lên sàn chứng khoán
Bộ Khoa học và Công nghệ
5 Tháng Sáu, 2021
Sự hữu ích của Lý thuyết trò chơi: Thảo luận về giải Nobel Kinh tế năm 2020
JABES
5 Tháng Sáu, 2021
Đoán định tư pháp: Xu thế mới trong hành nghề Luật
Khoa Luật
5 Tháng Sáu, 2021
Thiết kế đô thị: tầm nhìn vững chắc cho đô thị bền vững
Viện Đô thị thông minh và Quản lý
5 Tháng Sáu, 2021
Phục hồi du lịch và nỗ lực thoát khỏi vòng xoáy ảnh hưởng bởi Covid-19
Viện Đô thị thông minh và Quản lý
5 Tháng Sáu, 2021
Nghiên cứu Kinh tế học lao động trong sự biến động của thế giới
JABES
5 Tháng Sáu, 2021
Kết hợp Nghệ thuật và Công nghệ hướng đến Thành phố thông minh đáng sống
Viện Đô thị thông minh và Quản lý
5 Tháng Sáu, 2021
Chuỗi bài “The Basics of B2B”: Thị trường việc làm rộng mở nhiều sinh viên chuyên ngành Marketing đang bỏ quên
TS. Đinh Tiên Minh
5 Tháng Sáu, 2021
Môi trường không phải để nhà đầu tư xài miễn phí!
TS. Phạm Khánh Nam
5 Tháng Sáu, 2021
2021 sẽ là năm khởi đầu của chu kỳ tăng trưởng mới
PGS.TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
5 Tháng Sáu, 2021
Quỹ vaccine sẽ khả thi khi có người dân đóng góp
Phạm Khánh Nam, Việt Dũng
5 Tháng Sáu, 2021
Kích thích kinh tế, gia tăng vận tốc dòng tiền
Quách Doanh Nghiệp
5 Tháng Sáu, 2021
Đi tìm chiến lược hậu Covid-19 cho doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam
PGS TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo, ThS Lê Văn
5 Tháng Sáu, 2021
Insurtech – Cơ hội và thách thức cho Startup Việt
Ths. Lê Thị Hồng Hoa
5 Tháng Sáu, 2021