[Podcast] Vai trò của chính sách vĩ mô thận trọng đối với tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam

14 Tháng Tám, 2024

Từ khóa: Tăng trưởng tín dụng, chính sách vĩ mô thận trọng, chu kỳ, bùng nổ tín dụng, tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn, Việt Nam

Trong những năm gần đây, nhiều quốc gia đã và đang trải qua các chu kỳ bùng nổ về tín dụng và giá tài sản – một trong những nguyên nhân từng dẫn đến khủng hoảng tài chính. Để hạn chế tác động tiêu cực có thể xảy ra do chu kỳ bùng nổ tín dụng, các nhà làm chính sách đã sử dụng các chính sách vĩ mô thận trọng (Macroprudential Policy) như là tuyến phòng thủ đầu tiên để chống lại các rủi ro bất ổn tài chính. Nghiên cứu của nhóm tác giả Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (UEH) được thực hiện nhằm cung cấp bằng chứng thực nghiệm về tác động của chính sách vĩ mô thận trọng đến tăng trưởng tín dụng, chu kỳ tăng trưởng tín dụng, và phân bổ tín dụng tại thị trường Việt Nam.

Chính sách vĩ mô thận trọng được hiểu là các quy tắc, luật, và các điều kiện đối với hoạt động của ngân hàng và các định chế do cơ quan quản lý nhà nước thiết lập, nhằm bảo vệ toàn bộ hệ thống tài chính khỏi rủi ro. Các chính sách vĩ mô thận trọng được thiết kế để nhận diện và giảm thiểu rủi ro đối với sự ổn định hệ thống, từ đó giúp nền kinh tế tránh khỏi nguy cơ gián đoạn trong các dịch vụ tài chính, đảm bảo cho sự vận hành hiệu quả của thị trường. Các quy định mới về chính sách vĩ mô thận trọng trong lĩnh vực ngân hàng phản ánh nhận thức của các cơ quan quản lý về những rủi ro chính được bộc lộ trong suốt thời kỳ khủng hoảng, và nhận thức sâu hơn về các khái niệm rủi ro hệ thống. Điển hình về chính sách vĩ mô thận trọng là các quy định của Basel III hay Đạo luật Dodd-Frank (do Mỹ ban hành) nhằm buộc các tập đoàn tài chính phải tuân thủ các tiêu chuẩn giám sát chung mà trước đây được xem là nội bộ của tổ chức này nhằm tránh các rủi ro mang tính hệ thống. 

Đo lường và đánh giá tác động các chính sách vĩ mô thận trọng của một quốc gia đem đến khá nhiều thách thức cho các nhà nghiên cứu. Quá trình đánh giá hiệu quả của các chính sách này càng trở nên phức tạp khi có nhiều hơn một công cụ được kích hoạt. Nhà quản lý cần phân tích hiệu quả đối với mục tiêu cụ thể mà các chính sách vĩ mô thận trọng được thiết kế, trong khi các mục tiêu và công cụ chính sách này có bản chất đa dạng, và không có cách tiếp cận chung cho tất cả. Thêm vào đó, hầu hết các chính sách vĩ mô thận trọng nhằm mục đích kiểm soát, hạn chế rủi ro hệ thống, trong khi đây là loại rủi ro có bản chất nội sinh. Cho đến nay, vẫn chưa có sự thống nhất về các phương pháp đo lường mức độ mà các cơ quan quản lý đáp ứng được các mục tiêu này. Chính sách vĩ mô thận trọng do vậy khó đo lường hơn chính sách tiền tệ. Số lượng các công cụ của chính sách tiền tệ cũng ít hơn nhiều so với bộ công cụ của chính sách vĩ mô thận trọng. Do đó, vấn đề quan trọng là làm thế nào có thể thiết lập một khuôn khổ rõ ràng để đo lường và đánh giá hiệu quả các chính sách vĩ mô thận trọng của một quốc gia.

Với những quốc gia mà tín dụng ngân hàng vẫn đang là nguồn lực quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như Việt Nam, các công cụ giám sát tăng trưởng tín dụng luôn là mối quan tâm hàng đầu. Do được thiết lập dựa trên quan điểm của nhà quản lý, nên hiệu quả thực tế của từng công cụ kiểm soát vĩ mô thận trọng vẫn còn nhiều tranh luận. Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả xây dựng chỉ số chính sách vĩ mô thận trọng (MPI) mang tính đại diện cho Việt Nam, với 41 chỉ tiêu thành phần, thuộc 10 nhóm chỉ tiêu cơ bản dựa trên gợi ý nhóm chỉ tiêu cơ bản của chính vĩ mô thận trọng của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS, 2008); sau đó sử dụng chỉ số này làm cơ sở cho các phân tích về mối quan hệ giữa chính sách vĩ mô thận trọng với tăng trưởng tín dụng thực, cũng như tác động kết hợp giữa chính sách vĩ mô thận trọng và chính sách tiền tệ đến tăng trưởng tín dụng thực, chu kỳ tín dụng và phân bổ tín dụng tại thị trường Việt Nam qua giai đoạn tháng 1/1999 đến tháng 6/2023. Giá trị MPI càng gần 1 thể hiện trạng thái thắt chặt chính sách vĩ mô thận trọng, càng gần 0 thể hiện nới lỏng hoàn toàn chính sách vĩ mô thận trọng.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, xu hướng chung chỉ số MPI của Việt Nam tăng dần về 1 trong giai đoạn quan sát, hàm ý các chính sách vĩ mô thận trọng ngày càng được siết chặt hơn. So sánh chỉ số MPI với công cụ lãi suất của chính sách tiền tệ cho thấy có sự phân kỳ giữa công cụ lãi suất và công cụ chính sách vĩ mô thận trọng từ tháng 4/2014. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong giai đoạn này nới lỏng chính sách tiền tệ nhưng thắt chặt các công cụ chính sách vĩ mô thận trọng. Trong 10 nhóm chỉ tiêu thành phần, nhóm tác giả nhận thấy các công cụ giám sát vĩ mô thận trọng của Việt Nam chủ yếu tập trung vào nhóm kiểm soát rủi ro thanh khoản, kiểm soát tỷ lệ cho vay dựa trên nguồn lực hoặc tài sản đảm bảo, và kiểm soát rủi ro tập trung. Đặc biệt, từ sau năm 2012, NHNN Việt Nam sử dụng nhiều công cụ và thực hiện chính sách thắt chặt, đây cũng là xu hướng chung của các nền kinh tế mới nổi trên thế giới. Trong giai đoạn 2020-2022, thời kỳ xảy ra đại dịch Covid 19, chỉ số công cụ chính sách vĩ mô thận trọng có giảm (nới lỏng) nhưng vẫn ở mức cao. Về cơ bản, NHNN Việt Nam vẫn trong xu hướng thắt chặt công cụ chính sách vĩ mô thận trọng.

Nghiên cứu cũng tìm thấy bằng chứng đánh giá tác động của chính sách vĩ mô thận trọng đến tăng trưởng tín dụng thực, chu kỳ tăng trưởng tín dụng thực ở Việt Nam. Các kết quả từ mô hình thực nghiệm cho thấy, công cụ chính sách vĩ mô thận trọng có hiệu quả khi kiểm soát tăng trưởng tín dụng thực, nhưng các chưa có bằng chứng về hiệu quả giúp phản chu kỳ tăng trưởng tín dụng thực. 

Tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn là công cụ vĩ mô thận trọng rất đặc thù ở thị trường Việt Nam. Kết quả mô hình thực nghiệm cho thấy, giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn có hiệu quả kiểm soát tăng trưởng tín dụng nội địa, đồng thời lượng tín dụng có sự dịch chuyển từ các lĩnh vực kinh doanh khác vào lĩnh vực công nghiệp, thương mại và viễn thông.

Từ kết quả nghiên cứu thực nghiệm, nhóm tác giả nhận thấy việc NHNN sử dụng công cụ giám sát vĩ mô thận trọng có thể hỗ trợ kiểm soát tăng trưởng tín dụng và bùng nổ tín dụng. Tuy nhiên, các công cụ này cần được điều chỉnh để có thể đạt mục tiêu phản chu kỳ. Trong 10 nhóm công cụ chính sách vĩ mô thận trọng được khảo sát, có rất nhiều nhóm các công cụ đang ở trạng thái nới lỏng hoàn toàn (chưa áp dụng) như nhóm công cụ liên quan đến đo lường rủi ro. Ngoài ra, nhóm công cụ liên quan đến minh bạch và công bố các thông tin trên báo cáo tài chính, nhóm tuân thủ tiêu chuẩn quản trị vốn quốc tế (như Basel 2, Basel 3) cũng cần được tăng cường. 

Hơn nữa, trong giai đoạn hiện tại và tương lai, Việt Nam ngày càng có nhiều mối liên kết với các quốc gia trong khu vực và thị trường thế giới, theo xu hướng chung, hầu hết các quốc gia đều có những quy định giám sát vĩ mô thận trọng riêng, nên việc hợp tác giữa các quốc gia để tạo ra khung giám sát chung và đảm bảo sự tuân thủ của tổ chức tài chính nội địa và tổ chức tài chính nước ngoài ở thị trường nội địa cần được chú trọng. Các thỏa thuận tuân thủ song phương có thể giúp hạn chế việc các tổ chức tín dụng tìm cách né tránh các quy định giám sát khi có hoạt động kinh doanh đa quốc gia. Công nghệ tài chính cũng là lĩnh vực mới mẻ và ngày càng trở nên phổ biến, các NHTM cũng tham gia tạo ra sản phẩm dựa trên công nghệ tài chính, cùng với hoạt động cho vay của các công ty tài chính – từ đó cũng có thể tạo ra rủi ro cho hệ thống tài chính. Do vậy, các nhà làm chính sách cũng cần quan tâm đến đối tượng chịu giám sát vĩ mô thận trọng, bao gồm cả các lĩnh vực kinh doanh mới.

Xem toàn bộ bài nghiên cứu Tăng trưởng tín dụng và chính sách vĩ mô thận trọng: Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam TẠI ĐÂY.

Nhóm tác giả: TS. Đinh Thị Thu Hồng, TS. Nguyễn Hữu Tuấn, GS.TS. Trần Ngọc Thơ, PGS.TS. Trần Thị Hải Lý – Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

Đây là bài viết nằm trong Chuỗi bài lan tỏa nghiên cứu và kiến thức ứng dụng từ UEH với thông điệp “Research Contribution For All – Nghiên Cứu Vì Cộng Đồng”, UEH trân trọng kính mời Quý độc giả cùng đón xem bản tin UEH Research Insights tiếp theo.

Tin, ảnh: Tác giả, Phòng Marketing – Truyền thông UEH

Giọng đọc: Thanh Kiều

 

Chu kỳ giảm giá của đồng USD?

TS. Đinh Thị Thu Hồng và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Việt Nam cần kịch bản cho thương mại tương lai

ThS. Tô Công Nguyên Bảo

26 Tháng Sáu, 2021

Hệ thống tiền tệ tiếp theo như thế nào?

TS. Lê Đạt Chí và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Chuyển đổi số trong khu vực công tại Việt Nam

Khoa Quản lý nhà nước

26 Tháng Sáu, 2021

Cần đưa giao dịch công nghệ lên sàn chứng khoán

Bộ Khoa học và Công nghệ

5 Tháng Sáu, 2021

Thiết kế đô thị: tầm nhìn vững chắc cho đô thị bền vững

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

Phục hồi du lịch và nỗ lực thoát khỏi vòng xoáy ảnh hưởng bởi Covid-19

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

2021 sẽ là năm khởi đầu của chu kỳ tăng trưởng mới

PGS.TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

5 Tháng Sáu, 2021

Quỹ vaccine sẽ khả thi khi có người dân đóng góp

Phạm Khánh Nam, Việt Dũng

5 Tháng Sáu, 2021

Kích thích kinh tế, gia tăng vận tốc dòng tiền

Quách Doanh Nghiệp

5 Tháng Sáu, 2021

Đi tìm chiến lược hậu Covid-19 cho doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam

PGS TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo, ThS Lê Văn

5 Tháng Sáu, 2021

Insurtech – Cơ hội và thách thức cho Startup Việt

Ths. Lê Thị Hồng Hoa

5 Tháng Sáu, 2021