[Podcast] Thanh khoản dư thừa và sự ổn định ngân hàng – Kinh nghiệm quản trị rủi ro thanh khoản theo Basel III tại Việt Nam

15 Tháng Tám, 2024

Từ khoá: Thanh khoản dư thừa, ổn định ngân hàng, ngân hàng thương mại

Đề tài đặt ra vấn đề đáng quan tâm hiện nay về ảnh hưởng của dư thừa thanh khoản đến sự ổn định ngân hàng. Việc gia tăng thanh khoản đi kèm với nhu cầu giảm có thể dẫn đến mức độ dư thừa cao hơn, làm cho ngân hàng bất ổn hơn. Kết quả nghiên cứu của tác giả Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (UEH) cung cấp bằng chứng thực nghiệm quan trọng về tác động bất lợi tiềm tàng của thanh khoản dư thừa đối với ổn định ngân hàng nhằm đề xuất các hàm ý chính sách cũng như giải pháp cung ứng thanh khoản khi khủng hoảng xảy ra tại Việt Nam, từ đó điều hoà tài sản thanh khoản theo đúng yêu cầu của Basel III được áp dụng sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007 – 2009 (GFC).

Hệ thống ngân hàng cung cấp một loạt các sản phẩm và dịch vụ tài chính phức tạp, trực tiếp hay gián tiếp kết nối tất cả các lĩnh vực trong một nền kinh tế (Hurd, 2018; Lokipp và Monnin, 2013). Sau GFC, do tầm quan trọng của ngân hàng và mức độ thiệt hại mà khủng hoảng có thể gây ra cho ngành ngân hàng và các ngành có liên quan, các nhà nghiên cứu và quản lý tài chính đã tập trung nhiều hơn vào các nguyên nhân khác nhau dẫn đến sự thất bại ngân hàng hay các yếu tố gây ra bất kỳ mối đe doạ nào đối với sự ổn định trong tương lai của ngân hàng (Alam và cộng sự, 2019; Bai & Elyasiani, 2013; Bakoush và cộng sự, 2022; Fugacova và cộng sự, 2021).

Trong lĩnh vực ngân hàng, tính thanh khoản đề cập đến khả năng thanh toán các nghĩa vụ tài chính ngắn hạn khi đến hạn. Tuy nhiên, dư thừa thanh khoản là trạng thái trong đó ngân hàng duy trì tiền mặt và dự trữ thanh khoản khác nhiều hơn yêu cầu theo quy định (Aikaeli, 2011). Các ngân hàng có thể nắm giữ thanh khoản dư thừa một cách tự nguyện vì những động cơ phòng ngừa hoặc không tự nguyện vì những lý do khác. Việc tích luỹ thanh khoản được xem như một biện pháp bảo vệ chống lại các cú sốc khi khách hàng rút tiền ồ ạt, đặc biệt là khi thị trường liên ngân hàng hoạt động kém hiệu quả (Agenor và El Aynaoui, 2010). Các ngân hàng cũng tích trữ thanh khoản như một bộ đệm để đề phòng chi phí và dự trữ (Frost, 1971), rủi ro thanh khoản (Hahm và cộng sự, 2012) và tính dễ bị tổn thương của rủi ro thị trường (Agenor và cộng sự, 2004). Các ngân hàng đánh đổi khả năng sinh lời của họ với các tài sản lưu động sinh lời thấp để phòng chống rủi ro cho mình. Bên cạnh đó, sự can thiệp của chính phủ (Friedman, 1989), dòng vốn nước ngoài đầu tư vào nhiều (Zhang, 2009) cũng góp phần làm phát sinh dòng vốn thanh khoản lớn mà các ngân hàng chưa thể phân bổ hiệu quả do năng lực hạn chế, nhu cầu tín dụng thấp hơn do nền kinh tế đang trì trệ.

Các quy định áp dụng đối với các ngân hàng quốc tế luôn đảm bảo các ngân hàng này có thể tiếp tục quản lý rủi ro và hoạt động bình thường trở lại mà không cần hỗ trợ từ bên ngoài như: gói cứu trợ của chính phủ, liên kết hệ thống ngân hàng đa quốc gia, sáp nhập hoặc mua lại bắt buộc, sau GFC. Điều này có thể hiệu quả bằng cách duy trì bộ đệm thanh khoản bảo vệ ngân hàng chống lại những cú sốc thanh khoản nhỏ. Tuy nhiên, khi thanh khoản dư thừa, sẽ gây ra nhiều vấn đề rủi ro vì được sử dụng như một bộ đệm tín dụng (Acharya và Naqvi, 2012; Wagner, 2007) ở chỗ thanh khoản dư thừa báo hiệu an toàn với rủi ro thanh khoản thấp, khuyến khích các chủ ngân hàng cho vay nhiều hơn, thậm chí dễ dàng chấp nhận món vay có rủi ro cao hơn (Kato và Tsuruga, 2016; Liu và Way, 2010). Hơn nữa, khi đó ngân hàng có thể sử dụng tiền gửi rủi ro hơn để cho vay và đầu tư vào các tài sản có thế chấp bằng bất động sản, hay tiếp nhận những khách hàng có rủi ro cao với các tiêu chuẩn cho vay được nới lỏng, thường dẫn đến sự lựa chọn đối nghịch. Kết quả ngân hàng gia tăng nợ xấu (Klein, 2009), bong bóng bất động sản đưa sự ổn định ngân hàng vào tình thế nguy hiểm, gieo mầm cho các cuộc khủng hoảng tiếp theo (Acharya và Naqvi, 2012).

Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước công bố đến cuối tháng 2/2023, hiện thanh khoản của hệ thống đang dư thừa 50.000 tỷ đồng so với mức yêu cầu tối thiểu. Mặc dù các ngân hàng đang thừa vốn, nhưng các doanh nghiệp vẫn khó tiếp cận nguồn vốn. Điều này cho thấy hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp không tốt, cảnh báo nguy cơ nợ xấu ngân hàng có thể gia tăng trong thời gian tới. Ngoài ra, với cơ chế điều hành lãi suất liên ngân hàng liên tục giảm trong thời gian qua với mục tiêu hỗ trợ tín dụng nhưng chiến lược hoạch định nguồn vốn ngân hàng còn nhiều hạn chế, thanh khoản dư thừa chưa thật sự được bổ sung cho thị trường vốn hiệu quả. Thị trường bất động sản còn nhiều rủi ro cũng là một trong các nguyên nhân hạn chế hoạt động mở rộng tín dụng và giải phóng thanh khoản ngân hàng. Chính điều này đang dần gây ra sự bất ổn trong thị trường tài chính hiện nay.

Như vậy, nghiên cứu ảnh hưởng của dư thừa thanh khoản đến sự ổn định ngân hàng là rất cần thiết. Việc chấp nhận thanh khoản dư thừa tại các ngân hàng liệu có đảm bảo khả năng thanh toán và sự ổn định hay làm trầm trọng thêm rủi ro khi xuất hiện rủi ro đạo đức trong ngành ngân hàng, làm gia tăng khả năng vỡ nợ và bất ổn của người đi vay? (Achrya và Naqvi, 2012) Tác động của thanh khoản dư thừa đối với sự ổn định của ngân hàng là gì?

Bằng phương pháp định lượng sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính với dữ liệu bảng của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2010 – 2020, kết quả nghiên cứu cung cấp bằng chứng thực nghiệm về ảnh hưởng ngược chiều của thanh khoản dư thừa đến ổn định ngân hàng tại Việt Nam. Mặc dù khuyến nghị của Basel III về việc duy trì thanh khoản cao để đảm bảo sự ổn định ngân hàng, nhưng kết quả nghiên cứu cho thấy khi thanh khoản dư thừa có nguy cơ gia tăng các hành vi liên quan đến rủi ro đạo đức ở nhà quản lý vì họ dễ dàng chấp nhận rủi ro cao hơn trong các quyết định cấp tín dụng hay đầu tư.

Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách. Nhận thức mức độ ảnh hưởng này, các cơ quan quản lý ngân hàng cần cải thiện hơn sự giám sát tài chính, chú trọng đến hành vi chấp nhận rủi ro quá mức khi có bộ đệm thanh khoản cao.

Với các nền kinh tế mới nổi, trong đó có Việt Nam, quy định về thanh khoản của Basel III đề xuất có thể không tối ưu như nhau và giống với các quốc gia phát triển, cho nên cần linh hoạt điều chỉnh phù hợp với quy mô và đặc điểm của từng ngân hàng. Ngoài ra, sau đại dịch Covid-19, cơ quan quản lý cần chú trọng hoạch định chính sách khắc phục rủi ro hệ thống của ngành ngân hàng, không nên dùng thanh khoản để bảo hiểm cho nguy cơ khủng hoảng kinh tế vì tiềm ẩn khá nhiều bất ổn tài chính sau này. Việc hỗ trợ thanh khoản cho nền kinh tế như là một biện pháp ứng phó khó khăn do Covid-19 gây ra có thể thành công trong ngắn hạn, tuy nhiên dễ dẫn đến phân bổ tín dụng sai lầm, gia tăng nợ xấu.

Kết quả nghiên cứu cung cấp những bằng chứng thực nghiệm về nhân tố đóng góp cho sự ổn định ngân hàng dưới góc độ dư thừa thanh khoản. Nghiên cứu cũng tìm hiểu các tác động bất lợi tiềm tàng của dự trữ thanh khoản không tự nguyện đối với ổn định ngân hàng nhằm đánh giá giải pháp cung ứng thanh khoản khi khủng hoảng xảy ra tại Việt Nam. Việc gia tăng thanh khoản đi kèm với nhu cầu giảm có thể dẫn đến mức độ dư thừa cao hơn, làm cho ngân hàng bất ổn hơn. Cuối cùng, nghiên cứu cung cấp những gợi ý về mặt chính sách và quản lý giúp các ngân hàng có thể hoạch định hiệu quả các chính sách liên quan đến quản trị rủi ro thanh khoản nhằm gia tăng sự ổn định, từ đó giúp điều hòa tài sản thanh khoản của ngân hàng theo đúng yêu cầu của Basel III được áp dụng sau Khủng hoảng tài chính 2007 – 2009.

Xem toàn bộ bài nghiên cứu Thanh khoản dư thừa và sự ổn định ngân hàng – Kinh nghiệm quản trị rủi ro thanh khoản theo Basel III tại Việt Nam tại website UEH.

Tác giả: TS. Nguyễn Từ Nhu – Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

Đây là bài viết nằm trong Chuỗi bài lan tỏa nghiên cứu và kiến thức ứng dụng từ UEH với thông điệp “Research Contribution For All – Nghiên Cứu Vì Cộng Đồng”, UEH trân trọng kính mời Quý độc giả cùng đón xem bản tin UEH Research Insights tiếp theo.

Tin, ảnh: Tác giả, Phòng Marketing – Truyền thông UEH

Giọng đọc: Thanh Kiều

Chu kỳ giảm giá của đồng USD?

TS. Đinh Thị Thu Hồng và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Việt Nam cần kịch bản cho thương mại tương lai

ThS. Tô Công Nguyên Bảo

26 Tháng Sáu, 2021

Hệ thống tiền tệ tiếp theo như thế nào?

TS. Lê Đạt Chí và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Chuyển đổi số trong khu vực công tại Việt Nam

Khoa Quản lý nhà nước

26 Tháng Sáu, 2021

Cần đưa giao dịch công nghệ lên sàn chứng khoán

Bộ Khoa học và Công nghệ

5 Tháng Sáu, 2021

Thiết kế đô thị: tầm nhìn vững chắc cho đô thị bền vững

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

Phục hồi du lịch và nỗ lực thoát khỏi vòng xoáy ảnh hưởng bởi Covid-19

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

2021 sẽ là năm khởi đầu của chu kỳ tăng trưởng mới

PGS.TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

5 Tháng Sáu, 2021

Quỹ vaccine sẽ khả thi khi có người dân đóng góp

Phạm Khánh Nam, Việt Dũng

5 Tháng Sáu, 2021

Kích thích kinh tế, gia tăng vận tốc dòng tiền

Quách Doanh Nghiệp

5 Tháng Sáu, 2021

Đi tìm chiến lược hậu Covid-19 cho doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam

PGS TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo, ThS Lê Văn

5 Tháng Sáu, 2021

Insurtech – Cơ hội và thách thức cho Startup Việt

Ths. Lê Thị Hồng Hoa

5 Tháng Sáu, 2021