[Research Contribution] Tác động của phát triển thị trường vốn đối với tăng trưởng kinh tế ở các nước ASEAN và hàm ý chính sách cho Việt Nam

22 Tháng Tư, 2025

Từ khóa: ASEAN, thị trường vốn, tăng trưởng kinh tế

Thị trường vốn đóng một vai trò thiết yếu trong nền kinh tế quốc gia nói chung và tăng trưởng kinh tế nói riêng. Thông qua nghiên cứu “Tác động của phát triển thị trường vốn đối với tăng trưởng kinh tế ở các nước ASEAN”, tác giả đã đánh giá thực nghiệm tác động của phát triển thị trường vốn lên tăng trưởng kinh tế ở các nước ASEAN trong giai đoạn 2013-2023. Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thị trường vốn gắn với tăng trưởng kinh tế ở các nước ASEAN, đặc biệt là Việt Nam trong thời gian tới.

Thumb Lớn Thương Hiệu Học Thuật Mới

Bối cảnh nghiên cứu 

Vốn luôn là một trong những yếu tố quan trọng đối với sự phát triển và tăng trưởng kinh tế của bất kỳ một nền kinh tế nào. Cũng giống như các thị trường tiền tệ, thị trường vốn cũng rất quan trọng. Một thị trường vốn phát triển năng động và nổi bật sẽ thúc đẩy sản xuất và nâng cao năng suất trong nền kinh tế quốc gia bởi vì khi các nguồn quỹ tiếp cận được thị trường vốn trong thời gian dài thì các yêu cầu tài chính của các nhà kinh doanh sẽ được đáp ứng.

Trong khi đó, thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng của thị trường vốn. Một số nhà kinh tế nhấn mạnh sự phát triển của thị trường chứng khoán có tác động tích cực và là nhân tố quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Nghiên cứu của Ngare và cộng sự (2014) về vai trò của sự phát triển của thị trường chứng khoán đối với tăng trưởng kinh tế ở Châu Phi giai đoạn 1980-2010 trong phạm vi 36 quốc gia, trong đó có 18 quốc qua có thị trường chứng khoán đã phát hiện ra một số vấn đề sau: (i) các quốc gia có thị trường chứng khoán có xu hướng tăng trưởng nhanh hơn so với các quốc gia không có thị trường chứng khoán, (ii) quốc gia với mức độ phát triển cao hơn và có thị trường chứng khoán có xu hướng tăng trưởng nhanh hơn so với các quốc gia nhỏ có thị trường chứng khoán. Ngoài ra, nghiên cứu của Naik & Padhi (2015) về mối liên kết giữa phát triển thị trường chứng khoán và tăng trưởng kinh tế của 27 nền kinh tế thị trường mới nổi trong giai đoạn 1995-2012 cũng đưa ra kết luận rằng: phát triển thị trường chứng khoán cũng góp phần đáng kể và tích cực vào sự phát triển kinh tế.

Thị trường vốn ASEAN riêng lẻ là các thị trường có quy mô nhỏ, phạm vị sản phẩm dịch vụ hạn chế, tương đối thiếu thanh khoản, chi phí giao dịch cao do khối lượng giao dịch bị phân lẻ. Vì vậy, sự hợp tác giữa các thị trường chứng khoán của các nước là điều thiết yếu để tất cả cùng hưởng lợi và nhằm phát triển thị trường chứng khoán của các nước trong khu vực. Trên bình diện khu vực ASEAN, việc hình thành thị trường vốn chung sẽ giúp gia tăng tính cạnh tranh toàn cầu của các thị trường ASEAN với các khu vực khác, đồng thời thúc đẩy tiến độ hội nhập của các thị trường vốn kém phát triển trong khu vực, để tiến tới một mặt bằng chung.

ASEAN bao gồm 11 quốc gia được xem là khu vực có nền kinh tế phát triển năng động. Đặc biệt, một số thị trường chứng khoán mới nổi ở một số quốc gia ở khu vực này có vai trò đáng kể trong quá trình phát triển kinh tế ở các nước này. Tuy nhiên, các nghiên cứu về ảnh hưởng của sự phát triển thị trường chứng khoán lên tăng trưởng kinh tế ở khu vực này còn tương đối ít. Do đó, nghiên cứu “Tác động của phát triển thị trường vốn lên tăng trưởng kinh tế ở các nước ASEAN” được lựa chọn nhằm mục đích làm rõ sự tác động của thị trường vốn, đặc biệt là thị trường chứng khoán đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế của các quốc gia trong khu vực.

Thị trường vốn và tăng trưởng kinh tế

Thị trường vốn là nơi phát hành và giao dịch các loại chứng khoán trung dài hạn, bao gồm các công cụ nợ và vốn cổ phần, có kỳ hạn thanh toán lớn hơn một năm. Thị trường vốn bao gồm các nhà đầu tư, các chủ thể phát hành chứng khoán gồm chính phủ và các doanh nghiệp, chủ yếu là phát hành các công cụ nợ và vốn cổ phần. Thị trường vốn là một bộ phận quan trọng của thị trường tài chính chịu sự quản lý của chính phủ để đảm bảo thị trường hoạt động hiệu quả và lành mạnh.

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng trong dài hạn của sản lượng bình quân đầu người hay sản lượng trên mỗi người lao động. Theo North & Thomas (1973) tăng trưởng kinh tế chỉ xảy ra nếu sản lượng tăng nhanh hơn dân số. Theo trường phái kinh tế học cổ điển của các nhà kinh tế học Adam Smith và David Ricardo (1817), chính lao động là nguồn gốc tạo ra giá trị cho xã hội và được coi là yếu tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế. Nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng nhất, các yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế là đất đai, lao động và vốn. Tăng trưởng kinh tế thường được đo lường bằng tỷ lệ tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc dân (GNP) trong một năm. Tăng trưởng kinh tế có hai hình thức: thứ nhất là tăng trưởng theo chiều rộng bằng cách sử dụng nhiều tài nguyên hơn như vật chất, lao động, vốn tự nhiên; thứ hai là tăng trưởng theo chiều sâu bằng cách sử dụng lượng tài nguyên hiệu quả hơn. Theo hình thức thứ nhất, nếu tăng trưởng kinh tế dựa vào tăng lao động thì số lượng lao động tăng cao không những không làm tăng thu nhập bình quân đầu người, mà còn làm tăng sử dụng tài nguyên dẫn đến gây ảnh hưởng đến hệ sinh thái môi trường, lâu dài sẽ làm cạn kiệt tài nguyên quốc gia. Nhưng nếu tăng trưởng kinh tế theo hình thức thứ hai, nghĩa là sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực như vốn lao động thì kết quả thu nhập trung bình trên đầu người sẽ tăng lên, đồng thời cải thiện được chất lượng môi trường sống của người dân.

Vai trò của phát triển vốn đối với tăng trưởng kinh tế

Thị trường vốn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế chủ yếu thể hiện ở việc khuyến khích đầu tư bằng cách cung cấp phương tiện và cách thức để người mua và người bán chứng khoán thực hiện giao dịch. Các khoản đầu tư này sẽ cho phép doanh nghiệp huy động được vốn để phát triển kinh doanh, mở rộng sản xuất. Việc huy động vốn của các doanh nghiệp được thực hiện trên thị trường cấp một, còn thị trường cấp hai chủ yếu cung cấp tính thanh khoản cho các loại chứng khoán. Thị trường vốn cung cấp thêm một kênh đầu tư cho các nhà tiết kiệm. Thị trường vốn cũng cung cấp cho các nhà đầu tư khả năng đa dạng hóa danh mục đầu tư để giảm bớt rủi ro trong đầu tư. Với các loại chứng khoán đa dạng, thị trường vốn sẽ rất quan trọng đối với các nhà đầu tư khi mà các khoản đầu tư thay thế là tiền gửi tiết kiệm hoặc tín phiếu kho bạc có lãi suất thấp. Do vậy, thị trường vốn sẽ thúc đẩy việc tiết kiệm và huy động vốn. Nếu thị trường thứ cấp hoạt động tốt, các nhà đầu tư sẽ có được các khoản đầu tư có tính thanh khoản cao và tốt hơn so với việc đầu tư vào vàng hay bất động sản. Bên cạnh đó, thị trường vốn cũng cung cấp khả năng san sẻ và quản lý rủi ro tốt. Thị trường vốn cho phép các nhà đầu tư chia sẻ rủi ro của những dự án có mức độ rủi ro, lợi nhuận cao và cho phép các dự án này có thể thực hiện. Nếu không có cơ chế san sẻ và quản lý rủi ro này, các dự án có lợi nhuận cao, rủi ro cao sẽ không được thực hiện và như vậy sẽ không tạo thêm các giá trị mới cho nền kinh tế. Thị trường vốn do vậy thúc đẩy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 

Nghiên cứu của Atje & Jovanovic (1993) đối với một nhóm 40 nước trong các năm thập kỷ 1980 cho thấy có một mối liên hệ mạnh giữa giao dịch trên thị trường chứng khoán với tăng trưởng kinh tế. Sử dụng mô hình của Atje & Jovanovic (1993), Murinde (1996) tìm thấy mối liên hệ tích cực giữa phát triển thị trường vốn với tốc độ tăng trưởng kinh tế ở các nước Châu Á – Thái bình dương. Một nghiên cứu khác của Levine (1999) cho thấy thị trường chứng khoán đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế. Thêm vào đó, các tác giả này không tìm thấy bằng chứng tiêu cực của biến động thị trường chứng khoán hoặc sự hội nhập thị trường chứng khoán tới tăng trưởng kinh tế. Các nghiên cứu thực nghiệm khác cũng cho thấy thị trường tài chính phát triển trong đó có thị trường vốn có đóng góp tích cực tới hiệu quả hoạt động của các công ty.

Các yếu tố ảnh hưởng đến đến tăng trưởng kinh tế

Đầu tiên, lực lượng lao động là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Theo lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển của Solow (1956) thì lực lượng lao động có tác động đến tăng trưởng kinh tế. Sự gia tăng lực lượng lao động làm tăng sản lượng, tuy nhiên lực lượng lao động tăng tới một mức độ xác định sẽ làm giảm sản lượng bình quân đầu người.

Thứ hai, độ mở thương mại có tác động đến tăng trưởng kinh tế. Độ mở thương mại là để chỉ quy mô tương đối của khu vực ngoại thương trong một nền kinh tế, được đo lường bằng tiêu chí tổng kim ngạch xuất nhập khẩu/GDP. Việc nâng cao chất lượng độ mở của cả nền kinh tế sẽ tiếp thu trình độ khoa học công nghệ, trình độ quản lý, thu hút vốn đầu tư nước ngoài. 

Thứ ba, vấn đề về lạm phát được chú trọng quan tâm ở nhiều quốc gia. Các nghiên cứu trước đây cho thấy lạm phát có tác động đến tăng trưởng kinh tế, các nhà kinh tế đều cho rằng tỷ lệ lạm phát cao sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế hay bằng chứng về tác động bất lợi của lạm phát cao đối với tăng trưởng kinh tế trong các nghiên cứu gần đây. Theo nghiên cứu của Khan & Ssnhadji (2001) các nước đang phát triển và các nước công nghiệp có một ngưỡng lạm phát, nếu vượt qua mức lạm phát này sẽ có tác động tiêu cực đến nền kinh tế; cụ thể ngưỡng lạm phát của các nước đang phát triển là 11-12%/năm, các nước công nghiệp khoảng 1-3%/năm. 

Thứ tư, ở một khía cạnh nào đó thì cơ sở hạ tầng là nhân tố ảnh hưởng gián tiếp đến tăng trưởng kinh tế quốc gia. Cơ sở hạ tầng là tổng hợp những quan hệ sản xuất tạo thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định, được xem là một biến có tác động đến tăng trưởng kinh tế. 

Hàm ý chính sách

Dựa trên những phát hiện chính của nghiên cứu, tác giả đề xuất những khuyến nghị nhằm tăng trưởng kinh tế các nước ASEAN thông qua việc tăng tổng giá trị cổ phiếu trên sàn giao dịch và giá trị vốn hóa trên thị trường. 

Một là, đa dạng hóa các sản phẩm chứng khoán, các sản phẩm liên kết đầu tư, sản phẩm cơ cấu; triển khai các sản phẩm chứng khoán phái sinh hợp đồng tương lai trên một số chỉ số mới và hợp đồng tương lai trái phiếu Chính phủ; triển khai sản phẩm chứng quyền có bảo đảm; phát triển thêm các chỉ số cơ sở để làm tài sản cơ sở cho phái sinh. 

Hai là, phát triển và đa dạng hóa cơ sở nhà đầu tư và cải thiện sức cầu, như tiếp tục triển khai thực hiện các giải pháp nâng hạng thị trường chứng khoán các nước trong khu vực. 

Ba là, phát triển, nâng cao năng lực cho hệ thống các tổ chức trung gian thị trường, tiếp tục tái cấu trúc hệ thống các tổ chức kinh doanh chứng khoán để giảm số lượng và nâng cao chất lượng dịch vụ. 

Bốn là, khuyến khích hoạt động các sàn giao dịch chứng khoán chưa phát triển ở các quốc gia trong khu vực, hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm quản lý. 

Năm là, tập trung vào các giải pháp như tăng quy mô đầu tư cho các nhà đầu tư các nước thông qua việc gia tăng số lượng các công ty có vốn hóa lớn, thúc đẩy và tạo điều kiện cho doanh nghiệp huy động vốn…

Đối với thị trường Việt Nam, để phát triển thị trường vốn, trong tương lai cần phải gia tăng hàng hóa cho thị trường vốn cả về chiều rộng và chiều sâu: đa dạng hóa các loại chứng khoán niêm yết cũng như gia tăng số lượng mỗi chủng loại hàng hoá trên thị trường. Đối với hàng hoá trên thị trường cổ phiếu, các giải pháp cần được thực hiện như tiếp tục gia tăng số lượng và chất lượng cổ phiếu niêm yết trên thị trường tập trung. Có hai nguồn hàng hoá có thể cung cấp cho giải pháp này: (1) cổ phiếu của các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá, (2) cổ phiếu của các công ty cổ phần, công ty liên doanh, và các công ty 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. 

Để phát triển hàng hóa cho thị trường vốn, có thể bỏ giới hạn nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài đối với cổ phiếu của các công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Bên cạnh đó, việc nới lỏng việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu bổ sung đối với các công ty niêm yết là cần thiết. Việc áp dụng cơ chế đăng ký phát hành cổ phiếu mới có những lợi thế sau đây: (i) rút ngắn thời gian chuẩn bị hồ sơ phát hành và tận dụng được cơ hội huy động vốn; (ii) giảm bớt gánh nặng của hoạt động cấp phép phát hành; (iii) giảm chi phí phát hành cổ phiếu thường xuyên.

Ngoài ra, Việt Nam cũng cần tăng cường sự hội nhập giữa thị trường vốn trong nước với thị trường vốn quốc tế. Quá trình hội nhập thị trường vốn trong nước và thị trường vốn quốc tế là một quá trình tất yếu cùng với việc Việt Nam gia nhập WTO và khối ASEAN, khi đó các cam kết về hợp tác và mở cửa thị trường vốn đối với các đối tác, nhà đầu tư bên ngoài sẽ phải được thực hiện. Quan điểm chủ đạo của các giải pháp hội nhập thị trường vốn là thúc đẩy một thị trường vốn phát triển bền vững, thúc đẩy quá trình huy động vốn và đầu tư trên thị trường quốc tế nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp và nhà đầu tư tiếp cận thị trường quốc tế tốt hơn, đa dạng hóa danh mục đầu tư; tăng cường năng lực và khả năng cạnh tranh của thị trường vốn trong nước. Để thực hiện được điều này, Chính phủ và các cơ quan ban, ngành liên quan phải nỗ lực hơn trong việc hoàn thiện cơ chế quản lý, điều hành thị trường, các quy định về giám sát, xử phạt hành chính trong lĩnh vực chứng khoán, đơn cử như hoàn thiện hoạt động công bố thông tin của các chủ thể trên thị trường vốn giúp minh bạch các giao dịch và về lâu dài sẽ thu hút nguồn vốn an toàn, bền vững.

Nghiên cứu Tác động của phát triển thị trường vốn đối với tăng trưởng kinh tế ở các nước ASEAN đã được xuất bản trên Tạp chí Ngân hàng. Xem toàn bộ bài nghiên cứu TẠI ĐÂY. 

Tác giả: ThS. Nguyễn Hoàng Nam – Trường Kinh tế, Luật và Quản lý Nhà nước, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (UEH).

Đây là bài viết nằm trong Chuỗi bài lan tỏa nghiên cứu và kiến thức ứng dụng từ UEH với thông điệp “Research Contribution For All – Nghiên Cứu Vì Cộng Đồng”, UEH trân trọng kính mời Quý độc giả cùng đón xem bản tin UEH Research Insights tiếp theo.

Tin, ảnh: Tác giả, Ban Truyền thông và Phát triển đối tác UEH

Giọng đọc: Thanh Kiều

Chân Trang (1)

Chu kỳ giảm giá của đồng USD?

TS. Đinh Thị Thu Hồng và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Việt Nam cần kịch bản cho thương mại tương lai

ThS. Tô Công Nguyên Bảo

26 Tháng Sáu, 2021

Hệ thống tiền tệ tiếp theo như thế nào?

TS. Lê Đạt Chí và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Chuyển đổi số trong khu vực công tại Việt Nam

Khoa Quản lý nhà nước

26 Tháng Sáu, 2021

Cần đưa giao dịch công nghệ lên sàn chứng khoán

Bộ Khoa học và Công nghệ

5 Tháng Sáu, 2021

Thiết kế đô thị: tầm nhìn vững chắc cho đô thị bền vững

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

Phục hồi du lịch và nỗ lực thoát khỏi vòng xoáy ảnh hưởng bởi Covid-19

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

2021 sẽ là năm khởi đầu của chu kỳ tăng trưởng mới

PGS.TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

5 Tháng Sáu, 2021

Quỹ vaccine sẽ khả thi khi có người dân đóng góp

Phạm Khánh Nam, Việt Dũng

5 Tháng Sáu, 2021

Kích thích kinh tế, gia tăng vận tốc dòng tiền

Quách Doanh Nghiệp

5 Tháng Sáu, 2021

Đi tìm chiến lược hậu Covid-19 cho doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam

PGS TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo, ThS Lê Văn

5 Tháng Sáu, 2021

Insurtech – Cơ hội và thách thức cho Startup Việt

Ths. Lê Thị Hồng Hoa

5 Tháng Sáu, 2021