[Podcast] Thực trạng và giải pháp nâng cao chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương (PII) tỉnh Hậu Giang
8 Tháng Một, 2025
Từ khóa: chỉ số đổi mới sáng tạo, PII, tỉnh Hậu Giang
Hậu Giang là tỉnh nằm ở vị trí trung tâm của vùng Tây Nam Bộ, hội tụ nhiều yếu tố thuận lợi và có tiềm năng, lợi thế rất lớn để phát triển kinh tế – xã hội, nhất là ngành nông nghiệp, logistics, năng lượng và du lịch,… Tuy nhiên, điểm số đổi mới sáng tạo cấp địa phương (PII) của Hậu Giang chưa cao, xếp hạng Đổi mới sáng tạo chưa tốt, chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh. Xuất phát từ vấn đề này, nhóm tác giả thuộc Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (UEH) đã thực hiện đề tài nghiên cứu “Thực trạng và giải pháp nâng cao chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương (PII) của tỉnh Hậu Giang”.

Tầm quan trọng của KHCN và ĐMST đối với sự phát triển kinh tế và xã hội của địa phương
Bộ chỉ số ĐMST địa phương phản ánh tính chất, mức độ, kết quả hoạt động ĐMST của địa phương, tại địa phương, nhờ đó các nhà hoạch định chính sách, các cấp lãnh đạo địa phương có cơ sở xác định, lựa chọn các định hướng, giải pháp phù hợp cho việc phát triển kinh tế – xã hội của địa phương mình dựa trên KHCN & ĐMST. Cụ thể:
Đối với chính quyền địa phương các cấp:
(1) Cung cấp các căn cứ về điểm mạnh, điểm yếu, các yếu tố tiềm năng và điều kiện cần thiết để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội dựa trên KHCN & ĐMST của từng địa phương.
(2) Làm cơ sở khoa học và thực tiễn để xây dựng và thực thi hiệu quả các chính sách thúc đẩy, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động KHCN & ĐMST ở địa phương.
(3) Thúc đẩy thực hiện các sáng kiến phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương dựa trên KHCN & ĐMST, tận dụng các thế mạnh và vượt qua các thách thức.
(4) Cung cấp công cụ và kỹ thuật cho phép đánh giá, so sánh năng lực, kết quả hoạt động KHCN & ĐMST giữa các địa phương cũng như chất lượng điều hành, quản lý nhà nước về KHCN & ĐMST của từng địa phương.
(5) Góp phần nâng cao năng lực và kết quả hoạt động KHCN & ĐMST quốc gia; đặc biệt góp phần thực hiện và theo dõi, đánh giá việc thực hiện Chiến lược KHCN & ĐMST đến năm 2030, Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2030, Chiến lược Sở hữu trí tuệ đến năm 2030 và các mục tiêu phát triển bền vững.
Đối với nhà đầu tư: Kết quả đánh giá ĐMST địa phương là thông tin tham khảo hữu ích về môi trường đầu tư địa phương cho nhà đầu tư, doanh nghiệp để có các quyết định đầu tư phù hợp.
Đối với khu vực nghiên cứu: Bộ chỉ số cung cấp cơ sở dữ liệu toàn diện với hệ thống các chỉ tiêu đánh giá, có thể so sánh được qua thời gian và thúc đẩy các nghiên cứu khác.
Đối với cộng đồng các tổ chức quốc tế và nhà tài trợ: Là cơ sở để xem xét, cân nhắc các tài trợ và hoạt động có liên quan tại các địa phương ở Việt Nam.
Tổng quan thực trạng về bộ chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương
Bộ chỉ số PII năm 2023 có 52 chỉ số, chia làm 7 trụ cột theo nguyên lý của Bộ chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index – GII), gồm có:
- 5 trụ cột đầu vào phản ánh những yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội dựa trên KHCN & ĐMST: (1) Thể chế, (2) Vốn con người và Nghiên cứu và Phát triển, (3) Cơ sở hạ tầng, (4) Trình độ phát triển của thị trường và (5) Trình độ phát triển của doanh nghiệp.
- 2 trụ cột đầu ra phản ánh kết quả tác động của KHCN & ĐMST vào phát triển kinh tế – xã hội: (6) Sản phẩm tri thức, sáng tạo và công nghệ, (7) Tác động.

Hình 1: Kết quả PII của cả nước
Nguồn: Bộ Khoa học và Công nghệ (2024)
Bức tranh tổng thể về hiện trạng mô hình phát triển kinh tế – xã hội dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo của từng địa phương được thể hiện ở hình 1. Nhìn chung, có sự chênh lệch đáng kể giữa các vùng và các địa phương với nhau. Thuộc nhóm dẫn đầu là các địa phương có điều kiện tự nhiên và địa lý thuận lợi tập trung ở vùng đồng bằng sông Hồng (45,17 điểm), Đông Nam Bộ (44,81 điểm), có ngành công nghiệp – xây dựng, dịch vụ chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế, có nhiều khu công nghiệp, cơ sở hạ tầng phát triển, có hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo mạnh mẽ. Tiếp theo là các địa phương thuộc vùng Tây Nam Bộ (36,36 điểm). Ngược lại, thuộc nhóm cuối là các địa phương còn hạn chế trong phát triển kinh tế – xã hội, có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên chưa thuận lợi cho phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo vào phát triển kinh tế – xã hội (tập trung ở Tây Bắc Bộ, Đông Bắc Bộ).
Riêng đối với 13 địa phương vùng Tây Nam Bộ, theo điểm số và thứ hạng có thể thấy các địa phương vùng chia làm ba nhóm khá rõ rệt với Cần Thơ và Long An ở nhóm đầu; Đồng Tháp, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Hậu Giang và Trà Vinh ở nhóm thứ hai với điểm số trong khoảng từ 34,94 đến 38,32 điểm; và Bạc Liêu, Sóc Trăng, An Giang, Cà Mau, Kiên Giang ở nhóm cuối với điểm số từ 29,80 đến 32,54 điểm, phù hợp với đặc điểm, điều kiện tự nhiên và cơ cấu kinh tế của các địa phương trong vùng.
Hậu Giang là tỉnh nằm ở vị trí trung tâm của vùng Tây Nam Bộ, hội tụ nhiều yếu tố thuận lợi và có tiềm năng, lợi thế rất lớn để phát triển kinh tế – xã hội, nhất là ngành nông nghiệp, logistics, năng lượng và du lịch,… Tuy nhiên, điểm số PII của tỉnh chưa cao, xếp hạng Đổi mới sáng tạo của tỉnh chưa tốt, chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh. Điểm số về chỉ số Đổi mới sáng tạo của tỉnh Hậu Giang xếp hạng thứ 32/63 tỉnh, thành cả nước; xếp thứ 7/13 địa phương vùng Tây Nam bộ, với số điểm 36,54; điểm đầu vào ĐMST đạt 37,42 điểm và đầu ra ĐMST đạt 35,66 điểm. Về chỉ số thành phần cấu thành PII, theo hình 2, nhìn một cách tổng thể chỉ có 3 trên 7 trụ cột có điểm số cao hơn mức trung bình của cả nước, bao gồm: Thể chế (60,15 điểm), Cơ sở hạ tầng (64,33 điểm) và Tác động (54,84 điểm), đặc biệt trụ cột về Cơ sở hạ tầng có điểm số dẫn dẫu vùng Tây Nam Bộ. 4 trụ cột còn lại thấp hơn nhiều so với điểm số trung bình của cả nước, với trụ cột Vốn con người và nghiên cứu và phát triển (21,66 điểm), Trình độ phát triển của thị trường (25,06 điểm), Trình độ phát triển của doanh nghiệp (15,89 điểm) và trụ cột Sản phẩm tri thức, sáng tạo và công nghệ (12,19 điểm), riêng trụ cột Sản phẩm tri thức, sáng tạo và công nghệ ghi nhận điểm số thấp nhất toàn vùng. Kết quả này cho thấy, bên cạnh những điểm mạnh cần duy trì, Hậu Giang vẫn tồn tại những điểm yếu cần khắc phục nhằm nâng cao chỉ số Đổi mới sáng tạo cấp địa phương. Do đó, việc đánh giá kịp thời và chi tiết thực trạng PII của tỉnh Hậu Giang là điều cần thiết, chỉ ra được bức tranh thực tế toàn cảnh, đa chiều, các điểm mạnh, điểm yếu, các yếu tố tiềm năng và các điều kiện cần thiết để phát triển kinh tế – xã hội dựa trên Khoa học công nghệ và Đổi mới sáng tạo của tỉnh, từ đó đưa ra các giải pháp cải thiện và nâng cao trong thời gian tới. Và cũng trên cơ sở đó đánh giá mặt hợp lý, chưa hợp lý trong phương pháp xếp hạng hiện nay để có kiến nghị hoàn thiện hơn.

Hình 2: Điểm số các trụ cột PII 2023 của Hậu Giang
Nguồn: Tổng hợp của nhóm nghiên cứu
Kết quả đánh giá thực trạng từng trụ cột của bộ chỉ số PII năm 2023
*Trụ cột Thể chế
Hậu Giang ghi nhận điểm số trụ cột Thể chế cao với 60,15 điểm, nằm trong top 15 địa phương dẫn đầu cả nước và top 3 địa phương vùng Tây Nam Bộ. Trụ cột bao gồm 2 chỉ số: môi trường chính sách (với 3 chỉ số thành phần) và môi trường kinh doanh (với 4 chỉ số thành phần). Đối với chỉ số môi trường chính sách, các chỉ số thành phần gồm chính sách thúc đẩy KHCN & ĐMST phục vụ phát triển KT-XH, thiết chế pháp lý và an ninh trật tự và chính sách hỗ trợ doanh nghiệp lần lượt đạt 27,26; 7,55 và 5,85; góp phần giúp chỉ số này đạt 46,332 điểm. Đối với chỉ số môi trường doanh nghiệp, các chỉ số thành phần gồm chi phí gia nhập thị trường, tính năng động của chính quyền địa phương, cải cách hành chính và cạnh tranh bình đẳng lần lượt đạt 7,25; 7,26; 86,51 và 7,00; góp phần giúp chỉ số này đạt được số điểm tương đối cao là 73,96 (chỉ ít hơn 5,08 điểm so với tỉnh đạt điểm số cao nhất). Từ kết quả trên có thể thấy, chỉ số môi trường kinh doanh là điểm sáng của tỉnh Hậu Giang. Hậu Giang là địa phương đầu tiên tổ chức hội nghị xúc tiến thương mại – đầu tư tại Tây Nam Bộ và cũng vì vậy, Hậu Giang được đánh giá là tỉnh nắm bắt nhanh những lợi thế từ các chính sách và chủ trương mới. Trong những năm tới, tỉnh nên tiếp tục phát huy lợi thế môi trường doanh nghiệp của mình để tiếp tục thúc đẩy phát triển trụ cột thể chế nói riêng và bộ chỉ số PII nói chung.
Bảng 1: Điểm số trụ cột 1. Thể chế
Giá trị/ điểm số | Cao nhất | Thấp nhất | |
1. Thể chế | 60,15 | 77,16 | 27,85 |
1.1. Môi trường chính sách | 46,32 | 79,57 | 20,69 |
Chính sách thúc đẩy KHCN&ĐMST phục vụ phát triển KT-XH | 27,26 | 47,00 | 15,16 |
Thiết chế pháp lý và an ninh trật tự | 7,55 | 8,60 | 6,50 |
Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp | 5,85 | 7,04 | 4,59 |
1.2. Môi trường kinh doanh | 73,98 | 79,06 | 28,64 |
Chi phí gia nhập thị trường | 7,25 | 7,93 | 6,32 |
Tính năng động của chính quyền địa phương | 7,26 | 7,66 | 6,07 |
Cải cách hành chính | 86,51 | 90,10 | 75,99 |
Cạnh tranh bình đẳng | 7,00 | 7,36 | 4,19 |
Nguồn: Tổng hợp của nhóm nghiên cứu
*Vốn con người và nghiên cứu và phát triển
Bảng 2: Điểm số trụ cột 2. Vốn con người và nghiên cứu và phát triển
Giá trị/ điểm số | Cao nhất | Thấp nhất | |
2. Vốn con người và nghiên cứu và phát triển | 21,66 | 63,06 | 13,72 |
2.1. Giáo dục | 26,62 | 79,03 | 13,93 |
Điểm trung bình thi tốt nghiệp THPT (5 môn) | 6,30 | 7,20 | 5,72 |
Tỉ lệ HSTH tham gia các cuộc thi nghiên cứu KH&KT (%) | 0,54 | 2,26 | 0,06 |
Chi cho GD&ĐT bình quân 1 người đi học (triệu đồng) | 15,57 | 27,85 | 12,73 |
2.2. Nghiên cứu và phát triển | 16,71 | 77,24 | 4,56 |
Nhân lực NC&PT (toàn thời gian)/10.000 dân | 4,08 | 64,47 | 1,22 |
Chi cho khoa học và công nghệ/GRDP (%) | 0,05 | 0,40 | 0,00 |
Chi cho NC&PT/GRDP (%) | 0,04 | 0,46 | 0,00 |
Số tổ chức KH&CN/10.000 dân | 0,08 | 3,06 | 0,02 |
Nguồn: Tổng hợp của nhóm nghiên cứu
Trụ cột thứ hai trong đánh giá bộ chỉ số PII là vốn con người và nghiên cứu và phát triển. Từ dữ liệu bảng có thể thấy, Hậu Giang đạt 21,66 điểm (điểm số cao nhất là 63,06) và đứng thứ 53/63 tỉnh thành, thuộc top những tỉnh có số điểm trụ cột 2 thấp nhất. Trụ cột này gồm 2 chỉ số: giáo dục với 26,62 điểm và nghiên cứu và phát triển với 16,71 điểm. Đối với chỉ số giáo dục, ba chỉ số thành phần là điểm trung bình thi tốt nghiệp THPT (5 môn), tỷ lệ HSTH tham gia các cuộc thi nghiên cứu KH&KT và chi cho GD&ĐT bình quân 1 người đi học đạt số điểm lần lượt 6,30; 0,54 và 15,57. Đối với chỉ số nghiên cứu và phát triển, bốn chỉ số thành phần là nhân lực NC&PT (toàn thời gian)/10.000 dân, chi cho khoa học và công nghệ/GRDP, chi cho NC%PT/GRDP và số tổ chức KH&CN/10.000 dân lần lượt đạt số điểm 4,08; 0,05; 0,04 và 0,08. Trong đó, ba chỉ số thành phần cuối có số điểm thấp nhất trong trụ cột vốn con người và nghiên cứu và phát triển; điều này gợi ý những kế hoạch, chiến lược xây dựng nguồn chi cho hoạt động Khoa học, công nghệ và NC&PT cho Hậu Giang để cải thiện điểm số trụ cột này.
*Cơ sở hạ tầng
Từ dữ liệu bảng, có thể thấy trụ cột Cơ sở hạ tầng đạt số điểm tương đối cao 64,33 (điểm số cao nhất là 82,47), nằm trong top 10 cả nước và có điểm số trụ cột cơ sở hạ tầng cao nhất các tỉnh thuộc vùng Tây Nam Bộ. Trụ cột này bao gồm 2 chỉ số: hạ tầng ICT với 65,48 điểm và hạ tầng chung và môi trường sinh thái với 63,17 điểm. Đối với chỉ số hạ tầng ICT, hai chỉ số thành phần gồm hạ tầng số và quản trị điện tử có số điểm lần lượt là 0,73 và 2,95. Đối với chỉ số hạ tầng chung và môi trường sinh thái, ba chỉ số thành phần gồm cơ sở hạ tầng cơ bản, tỷ lệ đất nông nghiệp đã được xây dựng kết cấu hạ tầng và quản trị môi trường lần lượt có số điểm là 48,09; không có dữ liệu và 4,37. Nhìn chung, điểm số của tất cả các chỉ số thành phần trong trụ cột cơ sở hạ tầng đều ở mức tương đối cao, Hậu Giang nên tiếp tục phát huy và thực hiện theo chiến lược phát triển cơ sở hạ tầng số như hiện tại trong những năm tiếp theo.
Bảng 3: Điểm số trụ cột 3. Cơ sở hạ tầng
Giá trị/ Điểm số | Cao nhất | Thấp nhất | |
Cơ sở hạ tầng | 63,33 | 82,47 | 12,59 |
1.1.Hạ tầng ICT | 65,48 | 99,44 | 11,68 |
Hạ tầng số | 0,73 | 0,83 | 0,32 |
Quản trị điện tử | 2,95 | 3,71 | 2,17 |
1.2. Hạ tầng chung và môi trường sinh thái | 63,17 | 74,51 | 13,5 |
Cơ sở hạ tầng cơ bản | 49,90 | 69,45 | 36,64 |
Tỉ lệ đất công nghiệp đã được xây dựng kết cấu hạ tầng (%) | 100,00 | 0,16 | |
Quản trị môi trường | 4,37 | 4,63 | 2,82 |
Nguồn: Tổng hợp của nhóm nghiên cứu
*Trình độ phát triển của thị trường
Trụ cột thứ tư trong đánh giá bộ chỉ số PII là trình độ phát triển của thị trường. Từ dữ liệu bảng có thể thấy, tỉnh Hậu Giang đạt 25,06 điểm (điểm cao nhất là 77,81) và đứng thứ 51/63 tỉnh, thuộc top những tỉnh có điểm số trình độ phát triển thị trường thấp nhất cả nước. Trụ cột này gồm 2 chỉ số: tài chính và đầu tư với 26,52 điểm và quy mô thị trường với 23,59 điểm. Đối với tài chính và đầu tư, có 4 chỉ số thành phần gồm: tín dụng cho khu vực tư nhân/1.000 lao động, tài chính vi mô/GRDP, vốn SXKD bình quân hàng năm của các DN và giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của DN có điểm số lần lượt là 85,16; 0,04; 33,20 và 12,56. Đối với quy mô thị trường, có 3 chỉ số thành phần gồm số DN ngành dịch vụ chuyên môn KHCN/1.000 DN, mật độ DN/1.000 dân và đóng góp trong GDP cả nước có số điểm lần lượt là 66,84; 3,50 và 0,52. Nhìn chung, so với cả nước, các chỉ số thành phần trong trụ cột trình độ phát triển của thị trường tại tỉnh Hậu Giang tương đối thấp; thể hiện rằng trong tương lai cần có những thay đổi trong chiến lược phát triển trình độ của tỉnh.
Bảng 4: Điểm số trụ cột 4. Trình độ phát triển của thị trường
Giá trị/ điểm số | Cao nhất | Thấp nhất | |
3. Trình độ phát triển của thị trường | 25,06 | 77,81 | 14,30 |
3.1 Tài chính và đầu tư | 26,52 | 76,99 | 4,96 |
Tín dụng cho khu vực tư nhân/1.000 lao động (tỷ đồng) | 85,16 | 691,36 | 55,55 |
Tài chính vi mô/GRDP (%) | 0,04 | 0,09 | 0,00 |
Vốn SXKD bình quân hàng năm của các DN (tỷ đồng) | 33,20 | 114,59 | 17,23 |
Giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của DN (tỷ đồng) | 12,56 | 55,11 | 5,14 |
3.2. Quy mô thị trường | 23,59 | 88,87 | 13,05 |
Số DN ngành dịch vụ chuyên môn KH&CN/1.000 DN | 66,84 | 115,24 | 24,08 |
Mật độ DN/1.000 dân | 3,50 | 29,20 | 1,40 |
Đóng góp trong GDP cả nước (%) | 0,52 | 15,98 | 0,13 |
Nguồn: Tổng hợp của nhóm nghiên cứu
*Trình độ phát triển của doanh nghiệp
Trình độ phát triển của doanh nghiệp tỉnh Hậu Giang đạt 15,89 điểm, đứng thứ 44/ 63 tỉnh thành và đạt mức trung bình so với cả nước (với điểm số cao nhất là 56,85). Trình độ phát triển của doanh nghiệp được đo lường dựa trên 3 chỉ số: lao động có kiến thức, liên kết sáng tạo và hấp thu tri thức. Đối với các doanh nghiệp tỉnh Hậu Giang, chỉ số lao động có kiến thức đạt tổng điểm cao nhất với 20,89 điểm, nhưng so với cả nước (với điểm số cao nhất là 81,68) vẫn đang ở mức thấp. Chỉ số này có 3 chỉ số thành phần, gồm: tỷ lệ chi đào tạo lao động trong tổng chi của doanh nghiệp với 8,05 điểm; tỷ lệ từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo với 12,48 điểm và tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động NC&PT với 0,3 điểm – là mức điểm thấp nhất trong chỉ số lao động có kiến thức. Tiếp theo là chỉ số liên kết sáng tạo với 12,71 điểm, đạt mức điểm thấp nhất trong số 3 chỉ số của trụ cột 5. Chỉ số này có 3 chỉ số thành phần, gồm: hợp tác nghiên cứu giữa tổ chức KH&CN và DN với 0,00 điểm – mức điểm thấp nhất trong số các chỉ số thành phần trụ cột 5; tỷ lệ dự án đầu tư đang hoạt động trong các khu công nghiệp/1.000 doanh nghiệp với 9,48 điểm và tỷ lệ các dự án đầu tư đang hoạt động trong các cụm công nghiệp/1.000 doanh nghiệp 20,54 điểm. Cuối cùng, chỉ số thứ 3 của trụ cột 5 là hấp thu trí thức với mức điểm 14,08, đạt mức tương đối thấp khi so sánh về chỉ số này với các doanh nghiệp trên cả nước. Chỉ số hấp thu trí thức cũng có 3 chỉ số thành phần, gồm: đầu tư trực tiếp của nước ngoài/GRDP (%) với 0,00 điểm; tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo với 0,4 điểm và tỷ lệ doanh nghiệp có chứng chỉ ISO/1.000 doanh nghiệp với 12,24 điểm.
Bảng 5: Điểm số trụ cột 5. Trình độ phát triển của doanh nghiệp
Giá trị/ điểm số | Cao nhất | Thấp nhất | |
4. Trình độ phát triển của doanh nghiệp | 15,89 | 56,85 | 8,40 |
4.1. Lao động có kiến thức | 20,89 | 81,69 | 10,54 |
Tỷ lệ chi đào tạo lao động trong tổng chi của DN (%) | 8,05 | 12,90 | 2,37 |
Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo (%) | 12,48 | 50,30 | 11,93 |
Tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động NC&PT (%) | 0,30 | 29,30 | 0,00 |
Liên kết sáng tạo | 12,71 | 71,28 | 0,00 |
Hợp tác nghiên cứu giữa tổ chức KH&CN và DN (%) | 0,00 | 77,45 | 0,00 |
Tỷ lệ dự án đầu tư đang hoạt động trong các khu công nghiệp/ 1.000 DN | 9,48 | 135,82 | 0,00 |
Tỷ lệ các dự án đầu tư đang hoạt động trong các cụm công nghiệp/ 1,000 DN | 20,54 | 111,39 | 0,00 |
Hấp thu tri thức | 14,08 | 76,37 | 3,55 |
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài/GRDP (%) | 0,00 | 0,27 | -0,02 |
Tỷ lệ DN có hoạt động ĐMST (%) | 0,40 | 25,60 | 0,10 |
Tỷ lệ DN có chứng chỉ ISO/1.000 DN | 12,24 | 35,41 | 4,16 |
Nguồn: Tổng hợp của nhóm nghiên cứu
*Sản phẩm tri thức, sáng tạo và công nghệ
Bảng 6: Điểm số trụ cột 6. Sản phẩm tri thức, sáng tạo và công nghệ
Giá trị/ điểm số | Cao nhất | Thấp nhất | |
Sản phẩm tri thức, sáng tạo và công nghệ | 12,49 | 63,13 | 3,19 |
Sáng tạo tri thức | 11,21 | 100,00 | 0,00 |
Đơn đăng ký sáng chế và giải pháp hữu ích/10.000 dân | 0,05 | 2,37 | 0,00 |
Đơn đăng kí giống cây trồng/10.000 dân | 0,01 | 0,60 | 0,00 |
Tài sản vô hình | 11,80 | 62,88 | 5,66 |
Đơn đăng ký nhãn hiệu/1.000 DN | 39,20 | 278,70 | 39,20 |
Đơn đăng kí nhãn hiệu tập thể/10.000 dân | 0,22 | 1,27 | 0,05 |
Đơn đăng ký thiết kế kiểu dáng công nghiệp/10.000 dân | 0,12 | 1,97 | 0,00 |
Chỉ dẫn địa lý đã được cấp giấy chứng nhận bảo hộ/tổng số xã | 0,01 | 0,05 | 0,00 |
Lan tỏa tri thức | 14,45 | 60,10 | 0,00 |
Số DN mới thành lập/10.000 dân | 7,70 | 48,38 | 1,78 |
Số DN KH&CN và DN đủ điều kiện là DN KH&CN/1.000 DN | 1,18 | 7,36 | 0,00 |
Tỷ lệ DN khởi nghiệp sáng tạo trong tổng số DN mới thành lập (%) | 0,00 | 16,43 | 0,00 |
Nguồn: Tổng hợp của nhóm nghiên cứu
Điểm số trụ cột Sản phẩm tri thức, sáng tạo và công nghệ của tỉnh Hậu Giang xếp hạng thứ 62/64 tỉnh thành, với chỉ 12,49 điểm, trong đó nhóm chỉ số Sáng tạo tri thức, Tài sản vô hình và Lan tỏa tri thức lần lượt đạt 11,21 điểm, 11,80 điểm và 14,45 điểm. Nhìn chung, các chỉ số trong trụ cột Sản phẩm tri thức, sáng tạo và công nghệ của tỉnh đều đạt mức điểm thấp. Thậm chí, chỉ số Đơn đăng ký nhãn hiệu và Tỷ lệ doanh nghiệp khởi nghiệp đạt 0 điểm. Giá trị của chỉ số Đơn đăng ký nhãn hiệu trên 1000 DN đạt 39,20, thấp nhất cả nước. Tỷ lệ DN khởi nghiệp sáng tạo trong tổng số DN mới thành lập là 0%. Bên cạnh đó, chỉ số Đơn đăng ký giống cây trồng trên 10,000 dân và chỉ dẫn địa lý đã được cấp giấy chứng nhận bảo hộ trên tổng số xã cũng chỉ đạt giá trị 0,01, trong khi giá trị của tỉnh thấp nhất là 0.
*Tác động
Bảng 7 : Điểm số trụ cột 7. Tác động , nhóm chỉ số và các chỉ số thành phần của Hậu Giang
Giá trị/ điểm số | Cao nhất | Thấp nhất | |
Tác động | 58,84 | 66,21 | 20,54 |
Tác động đến sản xuất – kinh doanh | 64,88 | 76,23 | 17,54 |
Chỉ số sản xuất công nghiệp | 116,90 | 132,90 | 75,90 |
Số sản phẩm OCOP 4 sao trở lên/tổng số xã | 0,91 | 2,03 | 0,00 |
Giá trị xuất khẩu/GRDP (%) | 0,36 | 5,15 | 0,01 |
Tốc độ tăng năng suất lao động | 0,12 | 0,21 | -0,16 |
Tác động đến kinh tế – xã hội | 52,80 | 83,73 | 3,48 |
Tốc độ giảm nghèo | -0,10 | 7,00 | -12,90 |
Tỷ lệ lao động có việc làm trong nền kinh tế trên tổng dân số (%) | 55,60 | 64 | 37 |
Thu nhập bình quân đầu người (triệu đồng/ tháng) | 4,19 | 8,08 | 2,06 |
Chỉ số phát triển con người | 0,69 | 0,82 | 0,60 |
Nguồn: Tổng hợp của nhóm nghiên cứu
Điểm số trụ cột Tác động của tỉnh Hậu Giang đạt mức tương đối cao so với cả nước với 58,84 điểm, xếp hạng thứ 11 cả nước, trong đó nhóm chỉ số Tác động đến sản xuất – kinh doanh đạt 64,88 điểm (mức điểm cao nhất là 76,23 điểm) và nhóm chỉ số Tác động đến kinh tế – xã hội đạt 52,80 điểm (mức điểm cao nhất là 83,73 điểm). Đặc biệt, chỉ số Số sản phẩm OCOP 4 sao trở lên của tỉnh đạt 0,91, tương ứng với 100 điểm, giữ vị trí top 2 cả nước cùng với thành phố Hà Nội. Điều này có được là nhờ thế mạnh về sản xuất nông nghiệp, địa phương có nhiều mặt hàng nông sản chất lượng theo đặc trưng của từng vùng, rất thuận lợi trong việc lựa chọn loại nông sản mang tính đặc trưng riêng để thực hiện OCOP. Các sản phẩm OCOP của tỉnh Hậu Giang đều dựa trên các sản phẩm nông nghiệp chủ lực và đặc trưng của tỉnh như: gạo, khóm, mít, cá thát lát… để sản xuất, chế biến, đa dạng hóa sản phẩm mới như: “khô mít, pate mít”, “bánh phồng chả cá thát lát”,… Hầu hết các sản phẩm OCOP đều được chứng nhận các tiêu chuẩn chất lượng phù hợp như: ISO, VietGap, GlobalGap, GMP, HACCP…, cùng với công nghệ sản xuất, chế biến ngày càng tiến bộ, các chủ thể OCOP đã ứng dụng nhiều máy móc, thiết bị hiện đại vào sản xuất, đổi mới mẫu mã, bao bì, tem nhãn sản phẩm…, từ đó tạo ra các sản phẩm vừa đảm bảo chất lượng vừa mang tính thẩm mỹ cao, tạo được niềm tin cho người tiêu dùng.
Chỉ số có mức điểm thấp nhất trong Trụ cột 7 là Giá trị xuất khẩu, đạt 0,36, tương ứng với 9,77 điểm trên thang điểm 100. Nguyên nhân do ảnh hưởng khó khăn chung của tình hình trong nước và thế giới: xung đột địa chính trị giữa Nga và Ukraine, chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn, lạm phát tăng mạnh, chính sách tiền tệ thắt chặt ở nhiều quốc gia… làm cho thị trường xuất khẩu lớn và truyền thống bị thu hẹp, đơn hàng ít; trong nước chi phí sản xuất vẫn ở mức cao làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gặp khó khăn. Thu nhập bình quân đầu người của tỉnh cũng chỉ đạt giá trị 4,19 tương đương với 35,30 điểm. Các chỉ số còn lại trong trụ cột giữ mức điểm tương đối khi so với cả nước, dao động từ trên 50 đến 80 điểm.
Kết luận
Hậu Giang là tỉnh nằm ở vị trí trung tâm của vùng Tây Nam Bộ, hội tụ nhiều yếu tố thuận lợi và có tiềm năng, lợi thế rất lớn để phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, kinh tế của tỉnh phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và kết quả nghiên cứu của VCCI cũng cho thấy Hậu Giang chưa phải là địa phương phát triển kinh tế xã hội dựa trên Khoa học công nghệ và Đổi mới sáng tạo tốt, chỉ số đổi mới sáng tạo tốt.
Kết quả phân tích thực trạng về chỉ số PII 2023 chỉ rõ, Hậu Giang là địa phương dẫn đầu vùng Tây Nam Bộ về trụ cột Cơ sở hạ tầng nhờ có điểm số cao ở các chỉ số thành phần Hạ tầng số và Quản trị môi trường. Ngoài ra, Hậu Giang cũng đứng ở vị trí thứ hai về điểm số trụ cột Tác động trong vùng và vị trí thứ 3 về điểm số trụ cột Thể chế. Điều này cho thấy, địa phương có “điểm sáng” và thành tựu trong phát triển cơ sở hạ tầng và tích cực cải thiện môi trường kinh doanh, chất lượng dịch vụ hành chính công, chuyển đổi số, và đảm bảo chất lượng, tính thẩm mỹ cao đối với các sản phẩm OCOP. Do đó, trong những năm tới, tỉnh nên tiếp tục phát huy lợi thế về tính năng động của chính quyền địa phương, cạnh tranh bình đẳng trong môi trường doanh nghiệp, hạ tầng số, quản trị môi trường và phát huy thế mạnh nhờ về sản xuất nông nghiệp, sản xuất các nông sản mang tính đặc trưng riêng để thực hiện OCOP.
Bên cạnh những điểm mạnh cần duy trì, Hậu Giang vẫn tồn tại những điểm yếu cần khắc phục nhằm nâng cao chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương. Điển hình phải kể đến số lượng nhân lực nghiên cứu và phát triển còn ít, chưa có nhiều nhân lực có chuyên môn sâu, chi cho giáo dục và đào tạo bình quân trên một người đi học thấp, tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo chiếm số lượng nhỏ, số lượng đơn đăng ký nhãn hiệu và tỷ lệ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo trong tổng số doanh nghiệp mới thành lập thấp nhất trên cả nước,…
Qua đó, có thể thấy còn nhiều dư địa để chính quyền các địa phương thực hiện để thúc đẩy đổi mới sáng tạo thông qua Bộ chỉ số PII:
- Chính sách cho mảng dịch vụ số, sáng tạo hiện vẫn còn khá mờ nhạt và cần được tăng cường và rõ ràng hơn. Môi trường thể chế cũng cần cải thiện để doanh nghiệp yên tâm kinh doanh. Điều này bao gồm việc tối giản hóa thủ tục thành lập doanh nghiệp, cấp phép sản phẩm, giảm bớt gánh nặng thuế, và bảo vệ tác quyền hiệu quả hơn. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính gắn với xây dựng chính quyền điện tử; chuyển đổi số; nâng cao các chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh.
- Để thúc đẩy trụ cột đầu vào vốn nhân lực và phát triển và nghiên cứu, Hậu Giang cần có những định hướng chính sách cũng như các hoạt động đồng bộ nhằm thúc đẩy và hỗ trợ phát triển KHCN & ĐMST. Một số giải pháp được đề xuất: Đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho hoạt động R&D và đổi mới sáng tạo; Tăng ngân sách cho các dự án nghiên cứu và phát triển; Phát triển kế hoạch ngân sách dài hạn và ổn định cho nghiên cứu và phát triển; Khuyến khích doanh nghiệp và tổ chức tham gia vào hoạt động NC&PT bằng cách cung cấp các chính sách hỗ trợ và ưu đãi thuế, các khoản tài trợ và hỗ trợ khởi nghiệp. Thúc đẩy các mô hình hợp tác công tư để tăng cường sự đầu tư và phát triển trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.
- Trụ cột Trình độ phát triển của doanh nghiệp, Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên qua đào tạo rất ít. Điều này cho thấy cần Cải thiện chất lượng giáo dục – đào tạo, Xây dựng mối liên kết giữa các trường học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp để đảm bảo rằng các chương trình đào tạo phản ánh nhu cầu thực tế của thị trường lao động và cung cấp cơ hội thực tập và việc làm cho học sinh. Các chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy cần được đổi mới theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực; bên cạnh các kiến thức trong sách vở, người học cần được thực hành nhiều hơn, cũng như cần được trang bị thêm các kỹ năng mềm nhằm đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Hơn nữa, tổ chức các hoạt động tư vấn nghề nghiệp để giúp học sinh hiểu rõ về các lựa chọn nghề nghiệp, cũng như những lợi ích và cơ hội mà việc học tập và đào tạo có thể mang lại.
- Trụ cột sản phẩm tri thức, sáng tạo và công nghệ còn thấp do số đơn đăng ký nhãn hiệu tập thể/10.000 dân là ít dó đó cần có những chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận và đăng ký, hơn nữa, địa phương cũng nên đơn giản hóa quy trình đăng ký và thủ tục liên quan đến bảo hộ sáng chế, giảm bớt sự phức tạp và chi phí cho doanh nghiệp. Tạo ra một môi trường pháp lý ổn định và minh bạch để tạo động lực cho các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động sáng chế. Tạo ra các mạng lưới và cộng đồng để các doanh nghiệp có thể chia sẻ kinh nghiệm, ý tưởng và tài nguyên với nhau. Hợp tác với các tổ chức nghiên cứu và giáo dục để thúc đẩy sự đổi mới và phát triển công nghệ trong doanh nghiệp.
*Tài liệu tham khảo: Bộ Khoa học và công nghệ (2024), Báo cáo Bộ chỉ số Đổi mới sáng tạo cấp địa phương (Provincial Innovation Index – PII) năm 2023.
Xem toàn bộ bài nghiên cứu Thực trạng và giải pháp nâng cao chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương (PII) tỉnh Hậu Giang TẠI ĐÂY.
Nhóm tác giả: PGS.TS. Phan Thị Bích Nguyệt, PGS.TS Nguyễn Thị Hồng Nhâm – Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Đây là bài viết nằm trong Chuỗi bài lan tỏa nghiên cứu và kiến thức ứng dụng từ UEH với thông điệp “Research Contribution For All – Nghiên Cứu Vì Cộng Đồng”, UEH trân trọng kính mời Quý độc giả cùng đón xem bản tin UEH Research Insights tiếp theo.
Tin, ảnh: Nhóm Tác giả, Ban Truyền thông và Phát triển đối tác UEH
Giọng đọc: Thanh Kiều

[Podcast] Góp ý giải pháp phát triển giáo dục Đại học
5 Tháng Hai, 2025
[Podcast] Các yếu tố ảnh hưởng đến động lực học tập của sinh viên
22 Tháng Một, 2025
[Podcast] “Mô hình Campus thích ứng – Giải pháp dành cho Mekong bền vững”
13 Tháng Một, 2025
[Podcast] Đào tạo nhân lực Mekong tương lai: Trao quyền hành động bền vững
30 Tháng Mười Hai, 2024
[Podcast] Dự án Phát triển khung công bằng giao thoa nhằm khuyến khích khả năng đi bộ
30 Tháng Mười Hai, 2024
[Podcast] Chiến lược thiết kế hậu kỹ thuật số trong nghệ thuật truyền thông
27 Tháng Mười Một, 2024
[Podcast] Đồng sáng tạo và xây dựng cộng đồng ArtTech hướng tới tương lai bền vững
26 Tháng Mười Một, 2024
[Podcast] Quản trị công nghệ trong kỷ nguyên 4.0: Tổng quan và nhu cầu thị trường
21 Tháng Mười Một, 2024
[Podcast] Công nghệ thông tin – truyền thông và sự ổn định của hệ thống ngân hàng
21 Tháng Mười Một, 2024
[Podcast] Vai trò của chính sách vĩ mô thận trọng đối với tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam
21 Tháng Mười Một, 2024
[Podcast] Đề xuất hoàn thiện pháp luật về hoạt động môi giới chứng khoán tại Việt Nam
21 Tháng Mười Một, 2024
[Podcast] NFTs – Cuộc cách mạng nghệ thuật hay cơn sốt nhất thời?
18 Tháng Mười Một, 2024
[Podcast] CareFeeder – Giải pháp công nghệ hỗ trợ người già và bệnh nhân Parkinson tự ăn uống
11 Tháng Mười Một, 2024
[Podcast] Ứng dụng học máy trong phân tích dữ liệu quản trị nguồn nhân lực
11 Tháng Mười Một, 2024
[Podcast] Nghệ thuật dân gian thời 4.0: Múa rối nước tự động dựa trên nền tảng robot
7 Tháng Mười Một, 2024
[Podcast] Bứt phá hiệu suất sáng tạo nhân viên nhờ phản hồi mang tính phát triển
7 Tháng Mười Một, 2024
[Podcast] Giải pháp MPIA: Lối thoát tạm thời cho cuộc khủng hoảng thương mại quốc tế?
7 Tháng Mười Một, 2024
[Podcast] “Căn bệnh Hà Lan” trong việc nhận kiều hối và trường hợp Việt Nam
31 Tháng Mười, 2024
[Podcast] UEH hướng đến trung hòa carbon: Bước đi đầu tiên
22 Tháng Tám, 2024
[Podcast] Giải pháp nâng cao hoạt động vận động cho sinh viên
9 Tháng Tám, 2024
[Podcast] Phong Cách Lãnh Đạo Đạo Đức Và Hành Vi Ngoài Vai Trò Của Công Chức
29 Tháng Bảy, 2024
[Podcast] Định Hình Chiến Lược Phát Triển Toàn Diện, Bền Vững Cho Đất Nước
25 Tháng Bảy, 2024
[Podcast] Mô Hình Đại Học Bền Vững Dành Cho Các Thị Trường Mới Nổi
19 Tháng Bảy, 2024
[Podcast] Những Tiếp Cận Mới Nhất Dành Cho Các Đại Học Bền Vững
11 Tháng Bảy, 2024
[Podcast] Tác Động Của Nguồn Nhân Lực Xanh Đến Các Mục Tiêu Về Môi Trường
24 Tháng Năm, 2024
Kinh Tế Xã Hội Và Sự Phát Thải CO2 Ở Việt Nam Giai Đoạn 1990 – 2018
23 Tháng Năm, 2024
Pháp Luật Dữ Liệu – Kỳ 1: Cần Một Cách Tiếp Cận Mới
15 Tháng Năm, 2024
[Podcast] Pháp Luật Dữ Liệu – Kỳ 1: Cần Một Cách Tiếp Cận Mới
14 Tháng Năm, 2024
Đánh Giá Quảng Cáo Trên Nền Tảng Tiktok
8 Tháng Năm, 2024
[Podcast] Đánh Giá Quảng Cáo Trên Nền Tảng Tiktok
7 Tháng Năm, 2024
[podcast] Phản Ứng Của Chính Sách Xã Hội Đối Với Đại Dịch Covid-19 Ở Một Số Quốc Gia (Kỳ 1)
8 Tháng Mười Hai, 2023
Promoting Learner Autonomy in English Language Learning (Part 2)
28 Tháng Mười Một, 2023
[Podcast] Ngoại giao kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế
10 Tháng Mười Một, 2023
ArtTech and sustainable development
27 Tháng Mười, 2023
Cộng đồng ArtTech đầu tiên tại Việt Nam – Một năm nhìn lại
9 Tháng Mười, 2023
ArtTech – Một xu hướng tương lai
5 Tháng Mười, 2023
ArtTech và phát triển bền vững
3 Tháng Mười, 2023
[Podcast] Máy Tính Và Công Nghệ “Không Đi Một Mình” – Phần 4
24 Tháng Bảy, 2023
[Podcast] Tác Động Của Đồng Tiền Kỹ Thuật Số Đến Tỷ Giá Hối Đoái
14 Tháng Mười Một, 2022
[Podcast] Chuyển Đổi Số Trong Ngành Du Lịch Việt Nam
5 Tháng Năm, 2022
[Podcast] Chuyển Đổi Số Trong Lĩnh Vực Y Tế Ở Việt Nam
25 Tháng Ba, 2022
[Podcast] Phân Tích Dữ Liệu Con Người Tại Việt Nam
18 Tháng Ba, 2022
[Podcast] Chuyển Đổi Số Trong Nông Nghiệp Ở Việt Nam
11 Tháng Ba, 2022
[Podcast] Mô Hình Kinh Tế Chia sẻ: Các Vấn Đề Quản Lý Ở Việt Nam
21 Tháng Một, 2022
[Podcast] Nâng Cao Trải Nghiệm Khách Hàng Trực Tuyến Trong Ngành Du Lịch
15 Tháng Một, 2022
[Podcast] Chính Sách Lao Động Việc Làm Cho TP. HCM Trong Giai Đoạn Sau Giãn Cách
28 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Xây Dựng Thị Trường Chứng Khoán Phi Tập Trung Dựa Trên Công Nghệ Blockchain
24 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Học Tập Suốt Đời Trong Thế Giới Số: Góc Nhìn Từ Nghề Nghiệp Kế Toán, Kiểm toán
21 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Học Tập Suốt Đời Tại UEH: Hướng Đến Đại Học Bền Vững
14 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Xu Hướng Kinh Doanh Bán Lẻ Trực Tuyến Thời Kỳ Covid
10 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Big Data Cho Mục Tiêu Phát Triển Bền Vững: Kinh Nghiệm Quốc Tế
7 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Cải Cách Luật Đất Đai Để Thúc Đẩy Phát Triển Kinh Tế
2 Tháng Mười Hai, 2021
[Podcast] Cuộc Cách Mạng Trong Kinh Tế Học Thực Nghiệm
30 Tháng Mười Một, 2021
[Podcast] Chỉ Số Giá Tiêu Dùng Từ Góc Nhìn Khai Thác Dữ Liệu Lớn (Big Data)
17 Tháng Mười Một, 2021
[Podcast] Toàn Cảnh Tiền Tệ Kỹ Thuật Số – Phần 5 : Tiền Ổn Định Tư Nhân Diem
5 Tháng Mười Một, 2021
Đứt gãy chuỗi cung ứng vùng trọng điểm phía Nam: 8 giải pháp
20 Tháng Mười, 2021
[Podcast]Toàn Cảnh Tiền Tệ Kỹ Thuật Số – Phần 2: Những Cột Mốc Phát Triển
19 Tháng Mười, 2021
[Podcast] Toàn cảnh tiền tệ kỹ thuật số – Phần 1: Xu thế của thời đại
15 Tháng Mười, 2021
NGÂN HÀNG BẮT TAY FINTECH (Phần 3): Các Giải Pháp Hỗ Trợ
8 Tháng Mười, 2021
UEH chủ trì thành công Hội thảo ICBF 2021
7 Tháng Mười, 2021
GRSD 2021- Hội thảo khoa học “Tăng trưởng xanh và phát triển bền vững”
6 Tháng Mười, 2021
NGÂN HÀNG BẮT TAY FINTECH (phần 2): Chọn đối tác theo tiêu chí nào?
4 Tháng Mười, 2021
‘Đổi mới giáo dục nghề nghiệp là động cơ tăng trưởng kinh tế’
30 Tháng Chín, 2021
Giải pháp “mở cửa” an toàn với các khu công nghiệp tại TP Hồ Chí Minh
27 Tháng Chín, 2021
Khi cuộc sống “bình thường mới”, nơi ở cho người lao động cần được quan tâm
9 Tháng Chín, 2021
Hướng phát triển mô hình đào tạo luân phiên (Dual Education) tại Việt Nam
6 Tháng Chín, 2021
Webinar: Tương lai ngành Thẩm định giá trong thập niên mới
17 Tháng Tám, 2021
Hãy là người dùng thông minh khi đón nhận và chia sẻ thông tin
9 Tháng Tám, 2021
Webinar: An toàn thông tin kế toán trong kỷ nguyên số
3 Tháng Tám, 2021
Có nên đưa lãi suất tiền gửi VND về 0 phần trăm?
20 Tháng Bảy, 2021
Chu kỳ giảm giá của đồng USD?
TS. Đinh Thị Thu Hồng và nhóm nghiên cứu
26 Tháng Sáu, 2021
Việt Nam cần kịch bản cho thương mại tương lai
ThS. Tô Công Nguyên Bảo
26 Tháng Sáu, 2021
Hệ thống tiền tệ tiếp theo như thế nào?
TS. Lê Đạt Chí và nhóm nghiên cứu
26 Tháng Sáu, 2021
Chuyển đổi số trong trường đại học: Dạy học trực tuyến sẽ trở thành xu hướng tất yếu
GS.TS. Nguyễn Trọng Hoài
26 Tháng Sáu, 2021
Tiền số ngân hàng Trung ương – Vận hành và thử nghiệm
Châu Văn Thành
26 Tháng Sáu, 2021
Chuyển đổi số trong khu vực công tại Việt Nam
Khoa Quản lý nhà nước
26 Tháng Sáu, 2021
“Cấp cứu” doanh nghiệp trước làn sóng COVID-19 thứ 4
23 Tháng Sáu, 2021
Chuyên gia UEH: Việt Nam nên kết hợp tiêm vaccine miễn phí và dịch vụ
23 Tháng Sáu, 2021
Hội thảo khoa học về Thị trường bảo hiểm Việt Nam (Conference on Vietnam’s Insurance Industry – CVII)
Khoa Toán – Thống Kê
7 Tháng Sáu, 2021
Muốn có trung tâm tài chính phải có chiến lược thích ứng
Khoa Tài chính
5 Tháng Sáu, 2021
Cần đưa giao dịch công nghệ lên sàn chứng khoán
Bộ Khoa học và Công nghệ
5 Tháng Sáu, 2021
Sự hữu ích của Lý thuyết trò chơi: Thảo luận về giải Nobel Kinh tế năm 2020
JABES
5 Tháng Sáu, 2021
Đoán định tư pháp: Xu thế mới trong hành nghề Luật
Khoa Luật
5 Tháng Sáu, 2021
Thiết kế đô thị: tầm nhìn vững chắc cho đô thị bền vững
Viện Đô thị thông minh và Quản lý
5 Tháng Sáu, 2021
Phục hồi du lịch và nỗ lực thoát khỏi vòng xoáy ảnh hưởng bởi Covid-19
Viện Đô thị thông minh và Quản lý
5 Tháng Sáu, 2021
Nghiên cứu Kinh tế học lao động trong sự biến động của thế giới
JABES
5 Tháng Sáu, 2021
Kết hợp Nghệ thuật và Công nghệ hướng đến Thành phố thông minh đáng sống
Viện Đô thị thông minh và Quản lý
5 Tháng Sáu, 2021
Chuỗi bài “The Basics of B2B”: Thị trường việc làm rộng mở nhiều sinh viên chuyên ngành Marketing đang bỏ quên
TS. Đinh Tiên Minh
5 Tháng Sáu, 2021
Môi trường không phải để nhà đầu tư xài miễn phí!
TS. Phạm Khánh Nam
5 Tháng Sáu, 2021
2021 sẽ là năm khởi đầu của chu kỳ tăng trưởng mới
PGS.TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
5 Tháng Sáu, 2021
Quỹ vaccine sẽ khả thi khi có người dân đóng góp
Phạm Khánh Nam, Việt Dũng
5 Tháng Sáu, 2021
Kích thích kinh tế, gia tăng vận tốc dòng tiền
Quách Doanh Nghiệp
5 Tháng Sáu, 2021
Đi tìm chiến lược hậu Covid-19 cho doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam
PGS TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo, ThS Lê Văn
5 Tháng Sáu, 2021
Insurtech – Cơ hội và thách thức cho Startup Việt
Ths. Lê Thị Hồng Hoa
5 Tháng Sáu, 2021