[Podcast] Công nghệ thông tin – truyền thông và sự ổn định của hệ thống ngân hàng

20 Tháng Tám, 2024

Từ khóa: Công nghệ thông tin – truyền thông, ổn định ngân hàng, hiệu quả hoạt động ngân hàng

Sự ổn định của hệ thống ngân hàng là chủ đề thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý và hoạch định chính sách trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, câu hỏi liệu rằng xu hướng chạy đua về công nghệ thông tin và truyền thông đang gia tăng chóng mặt có tác động như thế nào đến sự ổn định của ngành tài chính ngân hàng vẫn chưa được sáng tỏ. Nghiên cứu của nhóm tác giả Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (UEH) đã tìm hiểu vai trò của việc đầu tư vào công nghệ thông tin – truyền thông đến sự ổn định trong hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam.

Đánh giá tác động của việc đầu tư ICT đến sự ổn định của ngân hàng là vô cùng cấp thiết 

Sự ổn định của ngân hàng là một vấn đề quan trọng, nhận được sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, quản lý và hoạch định chính sách nhiều năm qua. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự bất ổn của ngân hàng như: Quản lý và vốn, trạng thái thanh khoản, đa dạng hóa và tập trung hóa, sự thiếu hiệu quả trong vận hành. Tuy nhiên, tác động của xu hướng phát triển mạnh của công nghệ thông tin – truyền thông (gọi tắt là ICT) đến sự ổn định của ngân hàng vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Mối quan hệ này mang nhiều ý nghĩa vì ngân hàng là ngành có tỷ lệ đầu tư ICT lớn nhất thế giới.  

Đầu tư ICT là một quyết định quan trọng đối với các ngân hàng vì thường tốn kém và có thể ảnh hưởng đến các chiến lược của ngân hàng. Nhiều nghiên cứu trước đây cho thấy ngân hàng chi tiêu nhiều hơn cho ICT có thể thúc đẩy hiệu quả hoạt động và giảm các chi phí. Ngoài ra, với sự phát triển bùng nổ của các công ty công nghệ tài chính (Fintech), các ngân hàng buộc phải chi nhiều hơn cho việc cập nhật các ứng dụng ICT. Các công nghệ mới có thể liên tục cải thiện hiệu quả của dịch vụ, đáp ứng trải nghiệm của khách hàng và giữ chân họ. Các ngân hàng trên toàn thế giới đã tăng đáng kể chi tiêu ngân sách cho đổi mới ICT từ sau đại dịch COVID-19. Hơn nữa, chi phí đầu tư vào ICT thường rất lớn, nhưng chưa chắc mang lại lợi nhuận ổn định. Vì vậy, việc đánh giá tác động của việc đầu tư ICT đến sự ổn định của ngân hàng ngày càng quan trọng và cấp thiết. Đáng ngạc nhiên là các nghiên cứu về mối quan hệ giữa chi tiêu cho đầu tư ICT và sự ổn định của ngân hàng vẫn còn hạn chế (trong phạm vi tài liệu mà nhóm tác giả có thể tiếp cận được). Việc thiếu các bằng chứng thực nghiệm về đầu tư ICT và sự ổn định của ngân hàng là động lực quan trọng cho nghiên cứu này.  

Thực trạng đầu tư ICT của hệ thống ngân hàng Việt Nam

Nhóm tác giả chọn Việt Nam là bối cảnh nghiên cứu vì một số lý do. Đầu tiên, so với các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm từ các nền kinh tế phát triển, số lượng các nghiên cứu về vấn đề này tập trung vào các nước châu Á mới nổi khá hạn chế. Thứ hai, Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường tiềm năng cho ngân hàng số với nhiều yếu tố thuận lợi (như nền kinh tế mới nổi, dân số trẻ so với khu vực, tốc độ phát triển Internet cao, tiềm năng thanh toán không dùng tiền mặt và ngân hàng bán lẻ lớn). Năm 2019, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ký Quyết định 2655/QĐ-NHNN phê duyệt Chiến lược phát triển Công nghệ thông tin ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2030. Như vậy, các ngân hàng Việt Nam đều chú trọng cập nhật nền tảng ICT, đặc biệt là ngân hàng số. Do đó, việc khám phá mối quan hệ giữa chi tiêu cho ICT và sự ổn định của ngân hàng ngày càng trở nên quan trọng hơn ở quốc gia mới nổi này.  

Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ báo cáo tài chính đã kiểm toán của 25 ngân hàng thương mại Việt Nam từ năm 2010 đến 2020. Mẫu gồm 25 ngân hàng này đại diện cho khoảng 90% thị phần toàn hệ thống tài chính Việt Nam.

Nghiên cứu tìm thấy bằng chứng cho thấy hoạt động đầu tư công nghệ làm gia tăng sự ổn định của các ngân hàng Việt Nam. Nhóm tác giả cũng nhận thấy rằng, tác động của hoạt động đầu tư công nghệ đối với sự ổn định của các ngân hàng là không đồng nhất dựa trên các đặc điểm của ngân hàng, chẳng hạn như quy mô, lợi nhuận và thước đo sự ổn định của ngân hàng. 

Kết luận của nhóm tác giả có ý nghĩa đối với toàn ngành ngân hàng tại Việt Nam trước những tác động tiêu cực của hoạt động ICT và các nhà quản lý ngân hàng trong việc ra quyết định đầu tư nguồn lực dành cho ICT phù hợp với quy mô của chính họ, cũng như đề xuất các chiến lược đầu tư ICT trong tương lai.

Hàm ý chính sách cho các ngân hàng Việt Nam

Trước những kết quả phân tích, nhóm tác giả đề xuất một số hàm ý chính sách cho các ngân hàng Việt Nam như sau:  

Thứ nhất, nghiên cứu tìm thấy mối tương quan tích cực giữa sự ổn định của ngân hàng và đầu tư công nghệ đối với nhóm ngân hàng lớn. Các hoạt động đầu tư công nghệ cải thiện các sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng sẽ làm tăng tính ổn định ngân hàng. Đầu tư công nghệ mang lại nhiều giá trị về thương hiệu ngân hàng và nhiều tiện ích cho khách hàng. Nói cách khác, các hoạt động này làm tăng thêm lượng khách hàng trung thành tiềm năng và thông tin đo lường của khách hàng cũng minh bạch hơn.  

Thứ hai, các ngân hàng vừa và nhỏ có thể bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi các công ty Fintech và có thể phải đối mặt với áp lực về chi phí quản lý rủi ro cao. Vì vậy, để giảm thiểu tác động tiêu cực từ sự cạnh tranh khốc liệt của các công ty Fintech, các ngân hàng này cần chú trọng hơn nữa việc đa dạng hóa nguồn thu nhập qua nhiều kênh, đơn giản hóa quy trình nghiệp vụ nhằm tối ưu hóa cơ cấu tổ chức và nâng cao khả năng thích ứng với những thay đổi. Các NHTM cần đẩy mạnh hoạt động đầu tư công nghệ với chi phí đầu tư hợp lý theo quy mô hoặc tình hình của từng ngân hàng.    

Thứ ba, mặc dù mức độ đầu tư công nghệ tác động tiêu cực đến sự ổn định của các ngân hàng vừa và nhỏ, nhưng sự hợp tác tích cực giữa các ngân hàng và các công ty Fintech là rất quan trọng trong xu hướng cạnh tranh hiện nay. Vì vậy, Chính phủ cần ban hành các quy định điều chỉnh hoạt động hợp tác ngân hàng – công ty Fintech nhằm ổn định nền tài chính quốc gia, đảm bảo an toàn thị trường tài chính.  

Xem toàn bộ bài nghiên cứu Công nghệ thông tin – Truyền thông và sự ổn định của hệ thống ngân hàng Việt Nam tại website UEH.

Tác giả: TS. Phạm Khánh Duy – Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

Đây là bài viết nằm trong Chuỗi bài lan tỏa nghiên cứu và kiến thức ứng dụng từ UEH với thông điệp “Research Contribution For All – Nghiên Cứu Vì Cộng Đồng”, UEH trân trọng kính mời Quý độc giả cùng đón xem bản tin UEH Research Insights tiếp theo.

Tin, ảnh: Tác giả, Phòng Marketing  Truyền thông UEH

Giọng đọc: Khánh Hòa

 

Chu kỳ giảm giá của đồng USD?

TS. Đinh Thị Thu Hồng và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Việt Nam cần kịch bản cho thương mại tương lai

ThS. Tô Công Nguyên Bảo

26 Tháng Sáu, 2021

Hệ thống tiền tệ tiếp theo như thế nào?

TS. Lê Đạt Chí và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Chuyển đổi số trong khu vực công tại Việt Nam

Khoa Quản lý nhà nước

26 Tháng Sáu, 2021

Cần đưa giao dịch công nghệ lên sàn chứng khoán

Bộ Khoa học và Công nghệ

5 Tháng Sáu, 2021

Thiết kế đô thị: tầm nhìn vững chắc cho đô thị bền vững

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

Phục hồi du lịch và nỗ lực thoát khỏi vòng xoáy ảnh hưởng bởi Covid-19

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

2021 sẽ là năm khởi đầu của chu kỳ tăng trưởng mới

PGS.TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

5 Tháng Sáu, 2021

Quỹ vaccine sẽ khả thi khi có người dân đóng góp

Phạm Khánh Nam, Việt Dũng

5 Tháng Sáu, 2021

Kích thích kinh tế, gia tăng vận tốc dòng tiền

Quách Doanh Nghiệp

5 Tháng Sáu, 2021

Đi tìm chiến lược hậu Covid-19 cho doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam

PGS TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo, ThS Lê Văn

5 Tháng Sáu, 2021

Insurtech – Cơ hội và thách thức cho Startup Việt

Ths. Lê Thị Hồng Hoa

5 Tháng Sáu, 2021