[Research Contribution] Chiến lược thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong phát triển kinh tế – xã hội của địa phương: Đánh giá dựa trên các trụ cột của chỉ số đổi mới sáng tạo (PII)

6 Tháng Tám, 2025

THE RESEARCH OF Strategies to Foster Innovation in Local Socio-Economic Development: An Assessment Based on the Pillars of the Provincial Innovation Index (PII)

Explore more HERE

Từ khóa: Đổi mới sáng tạo; thu nhập địa phương; phát triển kinh tế xã hội.

Trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào giai đoạn tăng tốc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, đổi mới sáng tạo không chỉ là lựa chọn chiến lược mà còn là động lực cốt lõi thúc đẩy chuyển biến kinh tế – xã hội ở cấp địa phương. Bám sát tinh thần Nghị quyết số 57/NQ-TW năm 2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, nghiên cứu của nhóm tác giả thuộc Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (UEH) đã sử dụng bộ dữ liệu toàn diện từ 63 tỉnh, thành phố (trước khi sáp nhập) để làm rõ hai khía cạnh nổi bật: (i) mức độ phát triển không đồng đều trong các trụ cột đổi mới sáng tạo giữa các vùng lãnh thổ; và (ii) tác động của đổi mới sáng tạo đối với thu nhập và bất bình đẳng tại địa phương. 

Thumb Lớn Thương Hiệu Học Thuật Mới

Bối cảnh nghiên cứu 

Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ nhằm thích ứng với những xu thế mới của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 và tầm nhìn trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045. Trong bối cảnh đó, ngày 22 tháng 12 năm 2024, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57/NQ-TW về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Nghị quyết này xác lập một định hướng chiến lược toàn diện, xem đây là một trong những trụ cột quan trọng hàng đầu để thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Nghị quyết 57 nhấn mạnh một số quan điểm chỉ đạo cốt lõi, bao gồm:

(i) Xác lập đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ và chuyển đổi số là động lực chính của phát triển kinh tế – xã hội và hiện đại hóa phương thức quản trị quốc gia;

(ii) Đòi hỏi sự lãnh đạo toàn diện của Đảng và sự tham gia tích cực của toàn xã hội, đặc biệt là đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân và người dân;

(iii) Ưu tiên phát triển thể chế, hạ tầng, dữ liệu, công nghệ chiến lược và nguồn nhân lực – trong đó thể chế được xác định là điều kiện tiên quyết cần đi trước một bước;

(iv) Từng bước đạt được tự chủ công nghệ, đặc biệt đối với các lĩnh vực công nghệ then chốt, đồng thời dành ưu tiên cao cho phân bổ nguồn lực phát triển;

(v) Đảm bảo an ninh mạng, an toàn dữ liệu và chủ quyền quốc gia trên không gian mạng như một yêu cầu xuyên suốt trong toàn bộ tiến trình chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo.

Trên cơ sở đó, Nghị quyết 57 đặt ra các mục tiêu cụ thể đến năm 2030, trong đó có: tăng cường tiềm lực và trình độ khoa học công nghệ nội tại; nâng cao đóng góp của các yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế; đẩy mạnh đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D); xây dựng hạ tầng công nghệ số hiện đại; và hoàn thiện mô hình quản lý nhà nước dựa trên nền tảng số. Đây là những nền tảng quan trọng tạo tiền đề hiện thực hóa tầm nhìn 2045 – đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, dựa trên các yếu tố đổi mới sáng tạo làm động lực cốt lõi.

Quan điểm chỉ đạo trong Nghị quyết 57 có nhiều điểm tương đồng với khung lý thuyết về đổi mới sáng tạo toàn cầu của Dutta & Lanvin (2012), vốn được nội địa hóa thông qua bộ Chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương (Provincial Innovation Index – PII) tại Việt Nam. Theo khung nghiên cứu này, đổi mới sáng tạo là một quá trình gồm năm yếu tố đầu vào – thể chế; nguồn nhân lực và R&D; hạ tầng (công nghệ và sinh thái); trình độ thị trường; và trình độ doanh nghiệp – cùng với hai yếu tố đầu ra là sản phẩm tri thức – công nghệ và tác động của đổi mới sáng tạo đến kinh tế – xã hội.

Từ bối cảnh đó, nghiên cứu của tác giả UEH đã tập trung vào hai mục tiêu chính:

  1. Đánh giá điểm mạnh và điểm yếu trong từng thành phần của chỉ số PII ở cấp địa phương, từ đó nhận diện đặc trưng đổi mới sáng tạo theo từng vùng lãnh thổ;
  2. Phân tích tác động của đổi mới sáng tạo đến thu nhập của người dân tại các địa phương – xét theo thu nhập bình quân, thu nhập từ lương – công, thu nhập từ khu vực nông – lâm – ngư nghiệp và ngoài khu vực này; đồng thời đánh giá mối liên hệ giữa PII với mức thu nhập của nhóm giàu nhất và nghèo nhất, cũng như mức độ chênh lệch giữa hai nhóm này.

Kết quả nghiên cứu 

*Mỗi vùng kinh tế sẽ có thế mạnh riêng trong từng trụ cột của chỉ số đổi mới sáng tạo

Trong đó, Đồng bằng sông Hồng và Duyên hải miền Trung có thế mạnh ở nhóm yếu tố đầu vào của chỉ số đổi mới sáng tạo: Thể chế, Vốn con người và nghiên cứu phát triển, Cơ sở hạ tầng, Trình độ phát triển của thị trường, Trình độ phát triển của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long có thế mạnh ở hai nhóm chỉ tiêu đầu ra:
(1) Trụ cột về Sản phẩm tri thức, sáng tạo và công nghệ;

(2) Trụ cột về Tác động.

Đặc biệt, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long chứng tỏ lợi thế trong các sản phẩm tri thức, sáng tạo và công nghệ dựa vào điều kiện tự nhiên thuận lợi cho nông nghiệp. Kết quả xếp hạng phân vị này có thể được áp dụng để hoạch định chiến lược đổi mới sáng tạo địa phương dựa vào thế mạnh sẵn có của mỗi vùng, mỗi địa phương.

*Thu nhập bình quân đầu người của mỗi địa phương chịu tác động tích cực bởi cơ sở hạ tầng, trình độ phát triển thị trường, trình độ phát triển doanh nghiệp, sản phẩm tri thức – sáng tạo – công nghệ và các tác động của đổi mới sáng tạo

*Thu nhập của người dân đến từ tiền lương và tiền công chịu tác động tích cực bởi cơ sở hạ tầng, trình độ phát triển của thị trường và doanh nghiệp và các tác động của đổi mới sáng tạo

Mặt khác, kết quả ước lượng cũng cho thấy bằng chứng có ý nghĩa thống kê về tác động ngược chiều của thể chế đối với nhóm thu nhập này

*Vai trò của đổi mới sáng tạo đối với thu nhập đến từ các nhóm công nghiệp và dịch vụ nhiều hơn so với nhóm nông – lâm – thủy sản

Chỉ có tác động của đổi mới sáng tạo là ảnh hưởng tích cực đến nhóm thu nhập ngành nông – lâm – thủy sản. Mặt khác, nhóm thu nhập này bị gây trở ngại bởi các nhân tố về vốn con người, nghiên cứu và phát triển cũng như trình độ của thị trường và doanh nghiệp.

Kết quả này phản ánh hiện tượng người lao động trẻ ngày càng xa rời miền quê nông thôn để sinh sống và làm việc tại thành phố lớn hay các khu công nghiệp. Khi nông nghiệp là thế mạnh vốn có của một số khu vực như Đồng bằng sông Cửu Long, kết quả này như một hệ thống cảnh báo sớm cho chiến lược đổi mới sáng tạo và phát triển kinh tế – xã hội bền vững.

Tác động rõ ràng của đổi mới sáng tạo đối với nhóm thu nhập ngoài khu vực nông – lâm – thủy sản. Các nhân tố này bao gồm: trình độ phát triển của doanh nghiệp, sản phẩm tri thức – sáng tạo – công nghệ và các tác động về sản xuất kinh doanh và kinh tế – xã hội.

*Vai trò tích cực của đổi mới sáng tạo đối với cả hai nhóm có thu nhập cao nhất và thấp nhất
Cụ thể, nhóm thu nhập cao chịu ảnh hưởng bởi cơ sở hạ tầng, trình độ phát triển thị trường và tác động của đổi mới sáng tạo.

Nhóm thu nhập thấp chịu ảnh hưởng bởi trình độ phát triển doanh nghiệp, sản phẩm tri thức – sáng tạo – công nghệ và tác động của đổi mới sáng tạo.

Trên khía cạnh xã hội, các tác động (cả về kinh doanh, sản xuất và kinh tế – xã hội) của đổi mới sáng tạo giúp hạn chế sự chênh lệch giàu nghèo.

Hàm ý chính sách

Từ những phân tích trên, nhóm tác giả đã đề xuất các hàm ý chính sách như sau:

*Phát huy thế mạnh và khắc phục điểm yếu theo đặc trưng vùng miền

Kết quả nghiên cứu cho thấy các địa phương thuộc khu vực đồng bằng và duyên hải có lợi thế nổi bật trong các trụ cột của chỉ số đổi mới sáng tạo cấp tỉnh (PII), bao gồm: hạ tầng, trình độ phát triển thị trường, năng lực doanh nghiệp, sản phẩm tri thức – công nghệ và tác động xã hội của đổi mới sáng tạo. Ngược lại, các địa phương miền núi gặp nhiều khó khăn trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đặc biệt là ở các trụ cột về thể chế, vốn con người và nghiên cứu – phát triển (R&D).

Việc tiếp tục khai thác các thế mạnh sẵn có, đồng thời từng bước khắc phục những hạn chế vùng miền, là phù hợp với các giải pháp chiến lược theo Nghị quyết 57/NQ-TW, bao gồm:

  • (i) Tăng cường đầu tư và hoàn thiện hạ tầng phục vụ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số;
  • (ii) Thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp;
  • (iii) Ứng dụng mạnh mẽ khoa học – công nghệ trong hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị;
  • (iv) Mở rộng hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Một điểm đáng chú ý là các trụ cột về thể chế và vốn con người – R&D hiện chưa cho thấy tác động rõ ràng đến thu nhập dân cư. Tuy nhiên, đây lại là các yếu tố đầu vào thiết yếu cho chu trình đổi mới sáng tạo. Nếu được cải thiện, chúng không chỉ thúc đẩy năng lực đổi mới sáng tạo mà còn góp phần tăng thu nhập, mang lại lợi ích kép cho nền kinh tế. Việc nâng cao các trụ cột này trong giai đoạn 2026–2030 sẽ tạo nền tảng để thực hiện hai nhiệm vụ trọng tâm trong Nghị quyết 57:

  • (i) Hoàn thiện thể chế, tháo gỡ các rào cản phát triển, biến thể chế thành lợi thế cạnh tranh quốc gia;
  • (ii) Phát triển và trọng dụng nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

*Nâng cao vai trò của đổi mới sáng tạo đối với phát triển kinh tế – xã hội địa phương

Kết quả thực nghiệm đã chỉ ra rằng các trụ cột trong chỉ số PII có ảnh hưởng tích cực đến thu nhập bình quân đầu người, đặc biệt là thu nhập từ lương, công và thu nhập ngoài nông – lâm – ngư nghiệp (tức công nghiệp và dịch vụ). Tuy nhiên, chưa thấy tác động rõ nét của đổi mới sáng tạo đối với nhóm thu nhập từ nông – lâm – ngư, vốn là thế mạnh đặc thù của một số vùng như Đồng bằng sông Cửu Long.

Sự dịch chuyển lao động khỏi khu vực nông nghiệp, tác động của biến đổi khí hậu, và tình trạng xâm nhập mặn đang làm suy giảm lợi thế của ngành nông nghiệp. Do đó, cần tăng cường liên kết vùng – ngành, kết hợp đổi mới sáng tạo với thế mạnh sẵn có để phát triển nông – lâm – ngư nghiệp một cách bền vững.

Về mặt xã hội, đổi mới sáng tạo cũng cho thấy tiềm năng góp phần giảm chênh lệch thu nhập giữa các nhóm dân cư. Đây là cơ sở quan trọng để khẳng định vai trò của đổi mới sáng tạo như một trụ cột chiến lược trong phát triển kinh tế – xã hội địa phương, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam hướng đến năm 2030 và tầm nhìn 2045.

*Nâng cao chất lượng thể chế

Để tạo môi trường thuận lợi cho đổi mới sáng tạo, cần:

  • Cải thiện hệ thống chính sách thúc đẩy khoa học – công nghệ gắn với mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội;
  • Thiết lập hệ thống pháp lý minh bạch, đảm bảo an ninh trật tự và hỗ trợ doanh nghiệp;
  • Giảm chi phí gia nhập thị trường, nâng cao cạnh tranh và tính năng động của chính quyền địa phương.

Thể chế tốt sẽ không chỉ nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo mà còn có tác động lan tỏa đến thu nhập chung và thu nhập của từng nhóm dân cư.

*Nâng cao chất lượng vốn con người và hoạt động nghiên cứu – phát triển

Để phát triển nguồn nhân lực và hệ sinh thái nghiên cứu địa phương, cần:

  • Nâng cao kỹ năng cho học sinh phổ thông;
  • Tăng cường học sinh trung học tham gia các cuộc thi nghiên cứu khoa học;
  • Tăng chi tiêu công cho giáo dục và đào tạo;
  • Phát triển đội ngũ nghiên cứu – phát triển làm việc toàn thời gian;
  • Gia tăng chi tiêu công cho khoa học – công nghệ;
  • Nâng cao số lượng và năng lực tổ chức khoa học – công nghệ tại địa phương.

Đầu tư vào con người và R&D là giải pháp then chốt để gia tăng năng suất, thu nhập và năng lực cạnh tranh địa phương.

*Phát triển đồng bộ hạ tầng đổi mới sáng tạo

Tập trung vào:

  • Hạ tầng số và công nghệ thông tin (ICT): Gồm cả hạ tầng kỹ thuật và hệ thống chính quyền điện tử;
  • Hạ tầng công nghiệp và sinh thái: Bao gồm hạ tầng kết nối, khu công nghiệp hoàn chỉnh và quản trị môi trường.

Phát triển hạ tầng là điều kiện nền tảng để nâng cao hiệu quả của đổi mới sáng tạo trong giai đoạn 2026–2030.

*Nâng cao trình độ phát triển của thị trường

Hai khía cạnh chính cần ưu tiên:

  • Tài chính và đầu tư: Bao gồm tín dụng tư nhân, tài chính vi mô, vốn sản xuất – kinh doanh, giá trị tài sản cố định và đầu tư dài hạn;
  • Quy mô thị trường dịch vụ KHCN: Số lượng và chất lượng doanh nghiệp cung cấp dịch vụ KHCN.

Một thị trường phát triển là động lực mạnh mẽ thúc đẩy đổi mới sáng tạo và tăng thu nhập cho người dân.

*Phát triển doanh nghiệp đổi mới sáng tạo

Cần chú trọng ba nội dung:

  • Phát triển nguồn nhân lực doanh nghiệp: Tăng tỷ lệ lao động được đào tạo và chi phí đào tạo;
  • Liên kết sáng tạo: Đẩy mạnh hợp tác giữa doanh nghiệp và tổ chức khoa học – công nghệ, nâng cao chất lượng dự án trong khu công nghiệp;
  • Khả năng hấp thụ tri thức: Tăng đầu tư FDI, số doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và đạt chuẩn ISO.

*Thúc đẩy sản phẩm tri thức, sáng tạo và công nghệ

Tập trung vào ba nhóm chỉ tiêu:

  • Sáng tạo tri thức: Số lượng sáng chế, giải pháp hữu ích, giống cây trồng được đăng ký;
  • Tài sản vô hình: Đăng ký nhãn hiệu, kiểu dáng, chỉ dẫn địa lý;
  • Lan tỏa tri thức: Số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập, đặc biệt là doanh nghiệp khoa học – công nghệ và khởi nghiệp sáng tạo.

Bài viết là sản phẩm của đề tài cấp Nhà nước: “Hoàn thiện hệ thống chính sách nhằm nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số”. Xem toàn bộ bài viết TẠI ĐÂY.

Nhóm tác giả: PGS. TS. Phan Thị Bích Nguyệt, PGS. TS. Nguyễn Thị Hồng Nhâm, TS. Lê Văn – Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

Đây là bài viết nằm trong Chuỗi bài lan tỏa nghiên cứu và kiến thức ứng dụng từ UEH với thông điệp “Research Contribution For All – Nghiên Cứu Vì Cộng Đồng”, UEH trân trọng kính mời Quý độc giả cùng đón xem bản tin UEH Research Insights tiếp theo.

Tin, ảnh: Tác giả, Ban Truyền thông và Phát triển đối tác UEH

Giọng đọc: Thanh Kiều

Chân Trang (1)

Chu kỳ giảm giá của đồng USD?

TS. Đinh Thị Thu Hồng và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Việt Nam cần kịch bản cho thương mại tương lai

ThS. Tô Công Nguyên Bảo

26 Tháng Sáu, 2021

Hệ thống tiền tệ tiếp theo như thế nào?

TS. Lê Đạt Chí và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Chuyển đổi số trong khu vực công tại Việt Nam

Khoa Quản lý nhà nước

26 Tháng Sáu, 2021

Cần đưa giao dịch công nghệ lên sàn chứng khoán

Bộ Khoa học và Công nghệ

5 Tháng Sáu, 2021

Thiết kế đô thị: tầm nhìn vững chắc cho đô thị bền vững

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

Phục hồi du lịch và nỗ lực thoát khỏi vòng xoáy ảnh hưởng bởi Covid-19

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

2021 sẽ là năm khởi đầu của chu kỳ tăng trưởng mới

PGS.TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

5 Tháng Sáu, 2021

Quỹ vaccine sẽ khả thi khi có người dân đóng góp

Phạm Khánh Nam, Việt Dũng

5 Tháng Sáu, 2021

Kích thích kinh tế, gia tăng vận tốc dòng tiền

Quách Doanh Nghiệp

5 Tháng Sáu, 2021

Đi tìm chiến lược hậu Covid-19 cho doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam

PGS TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo, ThS Lê Văn

5 Tháng Sáu, 2021

Insurtech – Cơ hội và thách thức cho Startup Việt

Ths. Lê Thị Hồng Hoa

5 Tháng Sáu, 2021