[Podcast] Mối quan hệ giữa tín dụng xanh, phát thải CO2 và phát triển kinh tế xanh chất lượng cao: Trường hợp nghiên cứu tại Việt Nam

6 Tháng Chín, 2024

Từ khóa: tín dụng xanh, tài chính xanh, phát triển kinh tế xanh chất lượng cao, cường độ phát thải CO2, tăng trưởng bền vững

Trước khi đại dịch COVID-19 bùng phát, việc chuyển đổi sang một nền kinh tế xanh bền vững có khả năng chống chịu, được đặt ra như một mục tiêu quan trọng trong việc bảo vệ môi trường và đảm bảo sự phát triển bền vững. Khi đại dịch COVID-19 xảy ra, các nền kinh tế trên toàn cầu đều rất dễ tổn thương trước những thách thức của tình hình hiện tại và nó đã làm cho chúng ta nhận ra rằng việc đảm bảo sự bền vững của môi trường, tài nguyên và kinh tế là điều cực kỳ cần thiết. Từ thực tế này, tác giả Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (UEH) đã bắt tay thực hiện nghiên cứu “Mối quan hệ giữa tín dụng xanh, phát thải CO2 và phát triển kinh tế xanh chất lượng cao: Trường hợp nghiên cứu tại Việt Nam”.

Tín dụng xanh và phát triển kinh tế xanh chất lượng cao

Tại các nước đang phát triển như Việt Nam, tăng trưởng kinh tế xanh chất lượng cao có ý nghĩa thực tiễn to lớn và rất cần sự quan tâm. Phần lớn các nghiên cứu hiện có tại Việt Nam và trên thế giới chủ yếu tập trung vào phát triển kinh tế chất lượng cao, trong khi số lượng nghiên cứu về phát triển kinh tế xanh chất lượng cao còn rất hạn chế. Trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, cần thay đổi hệ thống kinh tế hiện tại để giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường và tài nguyên thiên nhiên, đồng thời thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững. Điều này bao gồm dời bỏ sử dụng năng lượng từ các nguồn nhiên liệu hóa thạch và chuyển sang sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo, cải thiện hiệu quả sử dụng tài nguyên và thúc đẩy mô hình tiêu thụ và sản xuất bền vững. Ở Việt Nam, chuyển đổi sang nền kinh tế xanh mang lại nhiều lợi ích như giảm ô nhiễm và khí thải nhà kính, cải thiện sức khỏe cộng đồng, tạo ra cơ hội việc làm mới và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Tuy nhiên, điều này cũng đòi hỏi phải vượt qua những thách thức đáng kể, bao gồm chính sách và quy định chưa đầy đủ, ý thức công chúng chưa đủ và nguồn lực tài chính hạn chế. Do đó, rất quan trọng để đầu tư vào nghiên cứu và phát triển các công nghệ xanh, thúc đẩy ý thức và giáo dục công chúng và cung cấp các chính sách khuyến khích tài chính cho các doanh nghiệp thực hiện các hoạt động bền vững.

Tín dụng xanh là một thuật ngữ được sử dụng để chỉ các khoản tín dụng hoặc các sản phẩm tài chính nhằm hỗ trợ cho các dự án phát triển kinh tế xanh hoặc các hoạt động bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, việc thu hút tín dụng xanh đối với các doanh nghiệp hoặc tổ chức nhỏ còn khó khăn, bởi các dự án xanh thường rủi ro cao và khó đánh giá được đối với các nhà cung cấp tài chính. Các tiêu chuẩn và quy định liên quan đến tín dụng xanh còn đang trong quá trình phát triển và không được thống nhất rõ ràng. Hơn hết, nếu được sử dụng đúng cách, tín dụng xanh sẽ là một nguồn tài trợ quan trọng cho các dự án xanh tại bất kỳ quốc gia nào. Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế, việc đầu tư vào các dự án xanh sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu lượng khí thải carbon, đồng thời giúp thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp xanh. Để đạt được những giá trị chất lượng cao trong quá trình phát triển nền kinh tế xanh, Việt Nam cần phải phân bổ nguồn tín dụng xanh một cách khôn ngoan và thận trọng. Vì vậy, việc tìm hiểu và nghiên cứu mối liên hệ giữa tín dụng xanh và phát triển kinh tế xanh chất lượng cao là rất cần thiết, giúp các nhà quản lý và các nhà đầu tư hiểu rõ hơn về các tiêu chuẩn và quy định liên quan đến tín dụng xanh, đồng thời giúp tăng cường sự tin tưởng và khả năng thu hút các nguồn tài trợ xanh cho các dự án phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam.

Tín dụng xanh tại Việt Nam

Tín dụng xanh là một loại hình tài chính quan trọng trong việc hỗ trợ phát triển các dự án xanh nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường và xã hội, đồng thời đẩy mạnh sự phát triển bền vững của các nền kinh tế trên toàn cầu. Tuy nhiên, để thu hút được khoản tín dụng xanh cho các dự án xanh, các doanh nghiệp hoặc tổ chức nhỏ thường gặp nhiều khó khăn và rủi ro. Điều này đặc biệt đúng ở Việt Nam, khi các tiêu chuẩn tín dụng xanh vẫn chưa được xác định rõ ràng và chính xác. Do đó, nghiên cứu đã (1) xây dựng hệ thống chỉ số phát triển kinh tế xanh chất lượng cao của 63 tỉnh/thành tại Việt Nam giai đoạn 2015-2021 bằng phương pháp Entropy; (2) phân tích sự tăng trưởng của kinh tế xanh chất lượng cao của 63 tỉnh/thành tại Việt Nam qua các năm; (3) phân tích sự tự tương quan không gian của sự tăng trưởng của kinh tế xanh chất lượng cao của 63 tỉnh/thành tại Việt Nam qua các năm; (4) phân tích tác động của tín dụng xanh và sự phát thải CO2 lên sự phát triển kinh tế xanh chất lượng cao tại Việt Nam.

Theo đó, nội dung nghiên cứu bao gồm:

  • Kiểm định mối quan hệ giữa tín dụng xanh, cường độ phát thải CO2 và sự phát triển kinh tế xanh chất lượng cao. Theo đó, trong khi tín dụng xanh có xu hướng tăng trưởng cùng chiều thì cường độ phát thải CO2 lại có xu hướng quan hệ ngược chiều với phát triển kinh tế xanh chất lượng cao.
  • Kết quả tính toán chỉ số Moran’s I chứng minh rằng có tồn tại sự tự tương quan không gian trong quá trình phát triển kinh tế xanh chất lượng cao tại các tỉnh thành của Việt Nam trong giai đoạn 2015-2021.
  • Kết quả hồi quy mô hình Spatial Durbin (SDM) đã chứng minh sự tồn tại của hiệu ứng không gian trong mô hình, sử dụng mô hình SDM phù hợp hơn SAR và SEM.

Khác với các nghiên cứu trước đây về chất lượng phát triển kinh tế ở Việt Nam, nghiên cứu này đi sâu vào mọi khía cạnh của một nền kinh tế xanh thực sự. Bằng cách tích hợp 18 chỉ số từ bốn trụ cột – môi trường, sản xuất xanh, mức sống xanh và bình đẳng xã hội – tác giả đã phân tích thấu đáo những hạn chế của chất lượng kinh tế xanh ở Việt Nam, đặc biệt là về môi trường sống đang xuống cấp và công bằng xã hội. Không giống như các nghiên cứu trước đây chỉ tập trung vào tốc độ tăng trưởng GDP và thu nhập, nghiên cứu này nổi bật nhờ xác định các khía cạnh quan trọng của chất lượng kinh tế xanh ở Việt Nam. Tuy nhiên, ở một khía cạnh tích cực, tác giả nhận thấy trách nhiệm của chính phủ, các chủ thể kinh tế và người dân Việt Nam ngày càng cao đối với mục tiêu tăng trưởng xanh và bền vững, đặc biệt là về sản xuất xanh và mức sống. Điều này thể hiện rõ ở việc khuyến khích tín dụng xanh cho các dự án, ngành kinh tế thân thiện với môi trường. Bằng chứng thực nghiệm vững chắc được trình bày trong nghiên cứu này chứng minh rằng tín dụng xanh không chỉ có tác động trực tiếp đến nỗ lực phát triển kinh tế xanh ở các tỉnh và thành phố của Việt Nam, mà còn gián tiếp thúc đẩy sản xuất xanh và giảm cường độ carbon dioxide. Một đóng góp nữa cũng không kém phần quan trọng là việc phát hiện mối tương quan trong phát triển kinh tế xanh chất lượng cao giữa các tỉnh ở Việt Nam, cũng như tác động lan tỏa của tín dụng xanh và phát thải CO2 đối với phát triển kinh tế xanh chất lượng cao của các tỉnh ở Việt Nam.

Hàm ý chính sách nâng cao chất lượng nền kinh tế xanh ở Việt Nam

Dựa trên những phát hiện chính, tác giả đã đưa ra một số hàm ý chính sách cụ thể nhằm nâng cao chất lượng của nền kinh tế xanh ở Việt Nam.

Thứ nhất, các nhà hoạch định chính sách cần tập trung cải thiện môi trường sống và công bằng xã hội vì chúng là những trụ cột cơ bản của nền kinh tế xanh. Điều này có thể đạt được bằng cách phân bổ đầu tư vào cơ sở hạ tầng và công nghệ xanh, cũng như thực hiện các chính sách hỗ trợ tiêu chuẩn sống xanh và thúc đẩy bình đẳng xã hội, đặc biệt ở các vùng khó khăn như Tây Bắc, Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long.

Thứ hai, điều quan trọng đối với chính phủ là ưu tiên sản xuất xanh và thúc đẩy các dự án kinh tế và ngành công nghiệp thân thiện với môi trường. Để đạt được mục tiêu này, việc cung cấp tín dụng xanh có thể được mở rộng và sử dụng như một công cụ hiệu quả để hỗ trợ các sáng kiến như vậy.

Ngoài ra, các nhà hoạch định chính sách phải đảm bảo rằng các tiêu chí về tín dụng xanh phù hợp với các tiêu chuẩn toàn cầu và việc tiếp cận các khoản tín dụng này dễ tiếp cận hơn để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất bền vững. Về vấn đề này, đáng chú ý là các dự án bù đắp carbon, như lâm nghiệp và nông nghiệp bền vững ở các vùng kinh tế kém phát triển như Tây Bắc, Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long; đánh bắt cá bền vững ở Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung bộ hay năng lượng tái tạo, bền vững, du lịch và các dự án quản lý chất thải trong cả nước, có thể đặc biệt thuận lợi.

Cuối cùng, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các yếu tố kinh tế, môi trường và xã hội nhấn mạnh sự cần thiết của các tỉnh để thúc đẩy hợp tác và xem xét lợi ích của các khu vực lân cận trong việc theo đuổi các mục tiêu phát triển kinh tế. Sự hợp tác như vậy sẽ giúp tăng cường các tác động tích cực và giảm thiểu các tác động bất lợi của quá trình phát triển, và đi đến kết quả cuối cùng là thúc đẩy đất nước hướng tới một tương lai bền vững.

Nghiên cứu này mang lại giá trị đối với Việt Nam từ hai khía cạnh khác nhau. Đầu tiên, thông qua việc đề xuất phương pháp tính giá trị chỉ số phát triển kinh tế xanh chất lượng cao, nghiên cứu giúp cho các cơ quan quản lý vĩ mô đánh giá được thực trạng của nền kinh tế xanh tại Việt Nam. Nhờ vào những thông tin này, các cơ quan này có thể đưa ra các chính sách phù hợp để phát triển kinh tế xanh chất lượng cao trong tương lai. Bên cạnh đó, nghiên cứu xem xét tác động của tín dụng xanh đến sự phát triển kinh tế xanh chất lượng cao. Kết quả của nghiên cứu này cho phép đánh giá tầm quan trọng của tín dụng xanh trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh tại Việt Nam, từ đó giúp các nhà quản lý đưa ra các chính sách hợp lý cho loại hình tín dụng này. Nghiên cứu này cũng góp phần xây dựng cơ sở lý thuyết và thực nghiệm cho Việt Nam để phát triển một nền kinh tế bền vững và thân thiện với môi trường.

Xem toàn bộ bài nghiên cứu Mối quan hệ giữa tín dụng xanh, phát thải CO2 và phát triển kinh tế xanh chất lượng cao: Trường hợp nghiên cứu tại Việt Nam TẠI ĐÂY.

Tác giả: PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Hữu Đức, Nguyễn Hà Minh Tâm – Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

Đây là bài viết nằm trong Chuỗi bài lan tỏa nghiên cứu và kiến thức ứng dụng từ UEH với thông điệp “Research Contribution For All – Nghiên Cứu Vì Cộng Đồng”, UEH trân trọng kính mời Quý độc giả cùng đón xem bản tin UEH Research Insights tiếp theo.

Tin, ảnh: Tác giả, Phòng Marketing – Truyền thông UEH

Giọng đọc: Khánh Hòa

 

Chu kỳ giảm giá của đồng USD?

TS. Đinh Thị Thu Hồng và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Việt Nam cần kịch bản cho thương mại tương lai

ThS. Tô Công Nguyên Bảo

26 Tháng Sáu, 2021

Hệ thống tiền tệ tiếp theo như thế nào?

TS. Lê Đạt Chí và nhóm nghiên cứu

26 Tháng Sáu, 2021

Chuyển đổi số trong khu vực công tại Việt Nam

Khoa Quản lý nhà nước

26 Tháng Sáu, 2021

Cần đưa giao dịch công nghệ lên sàn chứng khoán

Bộ Khoa học và Công nghệ

5 Tháng Sáu, 2021

Thiết kế đô thị: tầm nhìn vững chắc cho đô thị bền vững

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

Phục hồi du lịch và nỗ lực thoát khỏi vòng xoáy ảnh hưởng bởi Covid-19

Viện Đô thị thông minh và Quản lý

5 Tháng Sáu, 2021

2021 sẽ là năm khởi đầu của chu kỳ tăng trưởng mới

PGS.TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

5 Tháng Sáu, 2021

Quỹ vaccine sẽ khả thi khi có người dân đóng góp

Phạm Khánh Nam, Việt Dũng

5 Tháng Sáu, 2021

Kích thích kinh tế, gia tăng vận tốc dòng tiền

Quách Doanh Nghiệp

5 Tháng Sáu, 2021

Đi tìm chiến lược hậu Covid-19 cho doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam

PGS TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo, ThS Lê Văn

5 Tháng Sáu, 2021

Insurtech – Cơ hội và thách thức cho Startup Việt

Ths. Lê Thị Hồng Hoa

5 Tháng Sáu, 2021